Thứ Tư, 22 tháng 10, 2025

Đọc lại bài báo mở đầu Cơ học lượng tử của Heisenberg năm 1925

Năm 2025 là năm kỷ niệm 100 năm ngày ra đời của Cơ học lượng tử, đánh dấu bởi bài báo của Heisenberg tiêu đề “Về việc diễn giải lại động học và cơ học theo lý thuyết lượng tử.” vào tháng 7 năm 1925. Tuy vậy, nhắc đến Cơ học lượng tử nhiều người lại nghĩ đến phương trình Schrodinger hơn là các kết quả trong bài báo này. Còn nhắc đến Heisenberg, người ta nghĩ nhiều hơn đến hệ thức bất định mang tên ông được phát minh 2 năm sau đó. Vậy tại sao năm 1925 và bài báo “thần kỳ” trên lại được coi là khởi đầu của Cơ học lượng tử? Nguyên nhân là những kết quả nền tảng của Cơ học lượng tử chính thức đã xuất hiện trong bài báo này của Heisenberg. Nhưng vì các công cụ toán học mà ông dùng lại khá khó hiểu với đa số nên phương pháp này không được đưa vào sách giáo khoa, mà được thay thế bởi phương pháp hàm sóng với phương trình Schrodinger nổi tiếng. Nó không chỉ dễ biến đổi hơn, mà còn giúp người dùng dễ hình dung hơn. Một nguyên nhân nữa là cách tiếp cận của Heisenberg, còn gọi là Cơ học ma trận, không mở rộng được cho các hệ phân tử phức tạp. Nhưng không vì thế mà Cơ học ma trận và bài báo “thần kỳ” trên mất đi ý nghĩa và vẻ đẹp của lý thuyết này. Đây chính là một dịp rất đáng để chúng ta “đọc” lại bài báo này.
### 1. Bối cảnh trước bài báo của Heisenberg năm 1925 Đến đầu năm 1925, các nhà khoa học đã tìm ra nhiều hiện tượng và xây dựng những mô hình khác nhau về tính lượng tử của vật chất và năng lượng, có thể kể đến như: * Max Planck tìm ra công thức phổ bức xạ điện từ của vật đen, với cách giải thích là năng lượng bức xạ phát ra từ vật theo những phần năng lượng rời rạc gọi là lượng tử năng lượng, tỷ lệ với tần số của bức xạ. \[ E=h\nu \] với \(\nu\) là tần số ánh sáng và \(h\) là hằng số mang tên Planck. Đây là một luận điểm rất khác biệt với những quan sát thông thường, năng lượng bức xạ không phát ra một cách liên tục mà chỉ phát ra những lượng rời rạc, hãy tưởng tượng sóng biển đánh vào bờ với những khối năng lượng rời rạc? * Trước đó vào năm 1885, Balmer đã tìm ra công thức tính bước sóng, Công thức Balmer (1885), của các vạch phổ trong vùng ánh sáng nhìn trong ánh sáng tán xạ của nguyên tử Hydro. Các bước sóng này tuân theo công thức rất đặc biệt: \[ \lambda=b\frac{n_{2}^{2}}{n_{2}^{2}-4} \] Với \(b=364.56\) nanomet và \(n_{2}\) bằng 3, 4, 5, 6. Vì sao nguyên tử phát xạ ở các bước sóng rời rạc với \(n_{2}\) là các số nguyên như vậy? * 3 năm sau, Rydberg đã tổng kết tất cả các vạch phổ khác của Hydro và đưa ra công thức Rydberg (1888) chung. Thay vì dùng cho bước sóng \(\lambda\), ông xây dựng công thức cho số sóng \(k=1/\lambda\) nên công thức trở nên đẹp hơn: \[ k=R\left(\frac{1}{n_{1}^{2}}-\frac{1}{n_{2}^{2}}\right) \] Với \(R\) là hằng số Rydberg và \(n_{1}\) và \(n_{2}\) là các số nguyên dương khác nhau, đặc trưng cho các mức năng lượng \(E_{n}\) của nguyên tử Hydro. Với trường hợp các vạch phổ Balmer thì nguyên tử chuyển từ các trạng thái năng lượng \(n_{1}\) bằng 3, 4, 5, 6 về trạng thái năng lượng \(n_{2}\) bằng 2. Điều này cho thấy dấu hiệu các mức năng lượng rời rạc và và tỷ lệ theo nghịch đảo của các số nguyên dương bình phương. * Vào năm 1911, Niels Bohr đã giải thích rất thuyết phục các vạch quang phổ của hydro trên, bằng cách giả định rằng các electron trong một nguyên tử chỉ có thể quay quanh hạt nhân ở một tập hợp các mức năng lượng rời rạc. Bức xạ được phát ra khi electron chuyển giữa các mức năng lượng. Tuy nhiên, mô hình nguyên tử của Bohr lại mâu thuẫn rõ rệt với lý thuyết cổ điển vì theo lý thuyết cổ điển, khi một electron quay quanh hạt nhân nó sẽ phát ra bức xạ sóng điện từ với tần số được xác định bởi tần số quỹ đạo của nó, chứ không phải bởi sự khác biệt giữa các mức năng lượng. * Tiếp theo đó, mô hình lượng tử ánh sáng photon của Einstein khi giải thích hiện tượng quang điện đã khẳng định tính lượng tử của bức xạ, tức là năng lượng ánh sáng cũng bị lượng tử hoá giống vật chất.
### 2. Biểu diễn electron bằng một tập hợp các “dao động tử ảo" Những lý thuyết mang tính lượng tử trên mặc dù mang tính đột phá so với lý thuyết cổ điển nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh và chưa thể mô tả chính xác sự chuyển động của electron trong nguyên tử như Hydro. Đây là cách mà các nhà Vật lý vẫn thường tìm kiếm để “coi như” hiểu rõ về tính động lực của mỗi hạt, mỗi vật thể. Electron chuyển động thế nào? khi chịu tác động lực nó sẽ biến đổi theo phương trình gì? Chuyển mức năng lượng được mô tả bằng hàm gì?... Ở thời điểm này, Heisenberg đã liên tưởng đến ý tưởng các electron dao động mà Hendrik Lorentz dùng để mô tả cơ chế của hiện tượng tán sắc ánh sáng (chiết suất của một vật liệu phụ thuộc vào bước sóng của ánh sáng tới). Và các dữ liệu thực nghiệm trên nguyên tử Hydro ở trên là những dấu vết rõ rệt nhất về tính chất của electron mà chúng ta biết - chúng chuyển tiếp giữa các mức năng lượng và phát ra, hay hấp thụ các lượng tử ánh sáng photon với tần số phụ thuộc hiệu năng lượng. Và Heisenberg đã cho rằng trong electron ẩn chứa các 'dao động tử ảo', tương tự các 'hạt tích điện dao động ảo'. Tần số dao động của chúng tương với tần số phát xạ khi electron chuyển tiếp giữa các mức năng lượng. Vì electron có thể thực hiện chuyển tiếp giữa rất nhiều mức khác nhau như chúng ta đã quan sát ở các vạch phát xạ, nên electron chứa rất nhiều các 'dao động tử ảo'. Các dao động tử ảo này sẽ cho phép giải thích các vạch quang phổ nguyên tử mà chúng ta quan sát được, tức là giải thích kết quả thực nghiệm, điều quan trọng nhất của các mô hình Vật lý. Nhưng luận điểm độc đáo và cách mạng của Heisenberg chính là: từ bỏ ý tưởng việc tìm một quỹ đạo electron xác định, mà thay vào đó mô tả một electron như một tập hợp các dao động tử ảo tương ứng với tập hợp các chuyển tiếp năng lượng như được định nghĩa trong mô hình Bohr. Ông nói: “Hãy ngừng nói về những thứ chúng ta không thể quan sát được”. Sau này chúng ta hiểu rõ hơn tính không thể quan sát được bằng cách hình dùng nếu muốn thấy một electron đang quay quanh quỹ đạo có nghĩa là chiếu ánh sáng có tần số cực cao vào nó (vì một hình ảnh có độ phân giải cao chỉ có thể được tạo ra bằng ánh sáng tần số cao). Nhưng ánh sáng tần số cao bao gồm các photon năng lượng cao, và việc chiếu một photon năng lượng cao vào một electron sẽ tác động làm thay đổi quỹ đạo của nó và vị trí quan sát sẽ không phải vị trí chúng ta muốn quan sát khi không chiếu photon. Nói tóm lại, chúng ta không bao giờ có thể quan sát trực tiếp một quỹ đạo electron hay bất kỳ hạt nào. Thay vào đó, Heisenberg đề nghị: "Hãy xây dựng một lý thuyết vật lý chỉ dựa trên những gì chúng ta thực sự có thể đo được bằng thực nghiệm." Đó là các vạch quang phổ – là cường độ và tần số của ánh sáng mà nguyên tử hấp thụ và phát ra. Triết lý "chỉ quan tâm đến những gì quan sát được" này đã trở thành nền tảng của cuộc cách mạng lượng tử. Nhưng ông xây dựng lý thuyết này như thế nào? Trước hết, qua lý thuyết các mức năng lượng của Bohr, ông biểu diễn hàm trạng thái của một electron cổ điển theo thời gian ở mức năng lượng \(n\) như là một tổng các hàm dao động (hàm mũ với số mũ ảo), lấy ý tưởng từ khai triển Fourier: \[ X_{n}=\sum_{\alpha=-\infty}^{\infty}a_{\alpha}(n)e^{i\alpha\omega_{n}t} \] Ở đây các dao động tử ảo dao động với tần số góc là bội số \(\alpha\) lần một tần số cơ bản \(\omega_{n}\). Và trước đó, Kramer đã chỉ ra các hệ số Fourier của biểu diễn này, \(a_{\alpha}(n)\) này tỷ lệ trực tiếp với các hệ số chuyển mức năng lượng của Einstein. \[ B_{n\rightarrow m}\propto|x_{nm}|^{2} \] Ngoài ra, để cho hàm \(X_{n}\) có giá trị thực, các hệ số trái dấu phải là chuyển vị của nhau. \[ a_{-\alpha}(n)=a_{\alpha}^{*}(n) \] Theo nguyên lý tương đương của Bohr, ở mức năng lượng \(n\) cao các biểu diễn lượng tử sẽ hội tụ về biểu diễn cổ điển. Do vậy Heisenberg đã gán tần số dao động của các 'dao động tử ảo' bằng các tần số dao động Fourier, \(\alpha \omega_{n}\rightarrow \omega_{n,n-\alpha}\), tương ứng với tần số phát xạ khi electron chuyển từ mức \(n\) tới mức \(n-\alpha\), và đưa ra biểu diễn lượng tử của electron có dạng: \[ a_{\alpha}(n)e^{i\alpha\omega_{n}t}\longrightarrow a_{n,n-\alpha}e^{i\omega_{n,n-\alpha}t} \] Biểu diễn mới này chính là khái niệm “reinterpretation", biểu diễn lại, của tính động lực “kinematic” của electron trong tiêu đề bài báo. Lưu ý là \(\alpha\) có thể âm. Ngoài ra ta cũng có thể ký hiệu \(n-\alpha\) bởi mức năng lượng \(k\), khi đó tần số tương ứng của chuyển mức từ \(n\) sang \(k\) là \(\omega_{nk}\), tuân theo nguyên lý tổng hợp tần số của Ritz. Cách viết này sẽ thuận tiện hơn trong các biến đổi sau. Tổng hợp lại ta có biểu diễn của electron ở mức năng lượng \(n\) là một tổng sau: \[ x_{n}(t)=\sum_{k=-\infty}^{\infty}a_{nk}e^{i\omega_{nk}t} \] Với các tần số góc \(\omega_{nk}\) tính toán bởi công thức Planck: \[ \omega_{nk}=2\Pi v=2\Pi(E_{n}-E_{k})/h=(E_{n}-E_{k})/\hbar \] Và các hệ số \(a_{nk}\) cũng thoả mãn tính liên hợp của số phức như biểu diễn cổ điển. \[ a_{nk}=a_{kn}^{*} \]
### 3. Phương trình động học của electron và phép nhân ma trận Đến đây ta đã có được biểu diễn của electron ở trạng thái năng lượng \(n\) là một tổng các hàm dao động. Tiếp theo Heisenberg đã tìm cách tìm phương trình động lực cho electron, và thật ngạc nhiên là ông đã xuất phát từ cơ học Newton cổ điển và viết lại hàm chuyển động dưới dạng: \[ \dot{x}_{n}+f(x_{n})=0 \] với \(f(x_{n})\) là hàm phụ thuộc vào thế năng: \[ f(x_{n})\equiv\frac{1}{m}\frac{dV(x)}{dx}|_{x=x_{n}} \] Đây chính là từ khoá “mechanics” trong tiêu đề bài báo. Để tính toán hàm \(f\) phù hợp với biểu diễn lượng tử \(x_{n}\) nói trên, ông lại dùng khai triển Fourier cho hàm \(f\) bất kỳ bằng tổng một chuỗi các đa thức của \(x_{n}\). Có nghĩa là để tính được hàm \(f\), ta cần tính được hàm mũ của \(x_{n}\). Và Heisenberg đã tìm cách nhân hai chuỗi tổng quát bất kỳ \(x_{n}y_{n}\): \[ x_{n}y_{n}=\sum_{k}a_{nk}e^{i\omega_{nk}t}\sum_{m}b_{nm}e^{i\omega_{nm}t}=\sum_{k}\sum_{m}a_{nk}b_{nm}e^{i(\omega_{nk}+\omega_{nm})t} \] Đến đây chúng ta thấy là các tần số góc không thể cộng trực tiếp như việc cộng tần số của hai lần chuyển liên tiếp trong công thức của Ritz, do sai khác thứ tự hệ số - \(\omega_{nk}\) không cộng được với \(\omega_{nm}\). Và đây lại là một biến đổi đầy trực giác khác. Do tính liên hợp phức của các hệ số, \(b_{mk}=b_{km}^{*}\) và tính ngược dấu của các tần số: \[ \omega_{nk}=(E_{n}-E_{k})/\hbar=-(E_{k}-E_{n})/\hbar=-\omega_{kn} \] Heisenberg đã có thể hoán đổi chỉ số \(k\) và \(m\) của \(y_{n}\) và viết lại tích của hai trạng thái: \[ x_{n}y_{n}=\sum_{k}a_{nk}e^{i\omega_{nk}t}\sum_{m}b_{km}e^{i\omega_{km}t}=\sum_{k}\sum_{m}a_{nk}b_{km}e^{i(\omega_{nk}+\omega_{km})t}=\sum_{m}\sum_{k}a_{nk}b_{km}e^{i\omega_{nm}t} \] Hãy chú ý các tần số góc giờ đã có thể cộng được theo công thức Ritz: \(\omega_{nk}+\omega_{km}=\omega_{nm}\) tương ứng với việc dịch chuyển từ mức năng lượng \(n\) xuống \(k\), xong xuống \(m\). Và công thức tích có thể rút gọn lại: \[ x_{n}y_{n}=\sum_{m}c_{nm}e^{i\omega_{nm}t} \] cũng là một chuỗi "dao động tử ảo", với: \[ c_{nm}\equiv\sum_{k}a_{nk}b_{km} \] Đặc biệt chính Heisenberg cũng không biết biểu thức cuối \(c_{nm}\) chính là phần tử của một phép nhân ma trận trong bài báo đầu tiên. Chính Born đã nhận ra điều này và sử dụng ma trận trong bài báo tiếp theo cùng với P. Jordan, chỉ sau mấy tháng. Phép nhân ma trận để tính ra hàm trạng thái mới chính là phát hiện quan trọng nhất của bài báo, và cũng tạo ra tên gọi Cơ học ma trận, hay đúng ra là cách tiếp cận ma trận của cơ học lượng tử. Việc biểu diễn một electron bằng một chuỗi hay một ma trận là một cách nhìn hoàn toàn mới về vật chất. Các hạt vi mô không thể mô tả bởi một hàm vị trí xác định như toạ độ \(x = 5.4\) cm,... Sau này, Schrodinger đã đưa ra cách tiếp cận mới, biểu diễn electron hay hạt bất kỳ bằng một hàm sóng. Cách biểu diễn này tổng quan hơn, trực giác hơn. Thay vì các hệ số của ma trận Heisenberg cho biết xác suất chuyển trạng thái của năng lượng, giá trị của hàm sóng của Schrodinger có độ lớn tỷ lệ với xác suất tìm thấy hạt ở vị trí xác định. Cách biểu diễn như vậy vẫn tương thích nhưng dễ hiểu hơn. Cụ thể là, mặc dù không phát hiện được electron ở chính xác một vị trí, người ta có thể dự báo được xác suất của nó ở vị trí đó. Đây cũng là một cách nhìn hoàn toàn mới của cơ học lượng tử - vật chất tồn tại trong không gian một cách bất định, tuân theo những quy luật xác suất.
### 4. Tính không giao hoán và toán tử năng lượng Điều đặc biệt mà Heisenberg phát hiện là phép nhân này không giao hoán trong trường hợp tổng quát: \[ x_{n}y_{n}=\sum_{m}\sum_{k}a_{nk}b_{km}e^{i\omega_{nm}t} \] \[ y_{n}x_{n}=\sum_{m}\sum_{k}b_{nk}a_{km}e^{i\omega_{nm}t} \] \[ x_{n}y_{n}\ne y_{n}x_{n} \] Điều này có vẻ bình thường đối với một sinh viên khi học về nhân ma trận, nhưng các nhà Vật lý ở thời điểm đó rất ít dùng đến ma trận và do vậy, phép không giao hoán này rất đặc biệt. Nhưng tính không giao hoán được áp dụng thế nào? Chúng ta sẽ thấy ngay sau đây. Sau khi đã có hàm trạng thái cho một mức năng lượng \(n\), chúng ta đã có thể hình dung một công thức tổng quát cho trạng thái electron là một ma trận: \[ x(t) = \begin{bmatrix} \ddots & \vdots & \dots \\ \dots & x_{nm} e^{i \frac{E_n - E_m}{\hbar} t} & \dots \\ \dots & \vdots & \ddots \end{bmatrix} \] Trong đó mỗi hàng có thể coi là giới hạn của một quỹ đạo cổ điển ở mức năng lượng \(n\), mỗi phần tử đại diện cho một dao động tử ảo với hệ số \(x_{nm}\) tỷ lệ với xác suất chuyển trạng thái tương ứng hệ số B của Einstein. Khám phá tiếp theo của Heisenberg là: đạo hàm của \(x(t)\) theo thời gian là gì? Bằng cách sử dụng ký hiệu ma trận, chúng ta dễ nhận thấy: \[ \frac{dx}{dt} = \begin{bmatrix} \ddots & \vdots & \dots \\ \dots & i \frac{E_n - E_m}{\hbar} x_{nm} e^{i \frac{E_n - E_m}{\hbar} t} & \dots \\ \dots & \vdots & \ddots \end{bmatrix} \] Đạo hàm này là một ma trận mà mỗi phần tử chỉ sai khác so với phần tử tương ứng của \(x(t)\) ở hệ số \(i\frac{E_{n}-E_{m}}{\hbar}\). Và bằng cách định nghĩa thêm một ma trận đường chéo \(H\) với các phần tử trên đường chéo là các mức năng lượng \(E_{n}\), còn gọi là ma trận Hamiltonian: \[ H = \begin{bmatrix} \ddots & & \\ & E_n & 0 \\ & 0 & E_{n+1} \\ & & \ddots \end{bmatrix} \quad \text{i.e.} \quad H_{nm} = \delta_{nm} E_n \] Khi đó bằng cách nhân các ma trận \(Hx\) và \(xH\), và trừ chúng cho nhau ta sẽ thu được mức chênh lệch năng lượng \((E_{n}-E_{m})\) tìm thấy trong phép đạo hàm trên, chỉ còn khác ở hệ số \(i/\hbar\): \[ (Hx-xH)_{nm}=\sum_{k}H_{nk}x_{km}-x_{nk}H_{km}=\sum_{k}E_{n}\delta_{nk}x_{km}-x_{nk}E_{m}\delta_{km}=(E_{n}-E_{m})x_{nm} \] Hay nói cách khác, đạo hàm của một ma trận theo thời gian chính là toán tử giao hoán của ma trận đó với ma trận Hamiltonian, nhân với hệ số \(i/\hbar\). \[ \frac{dx}{dt}=\frac{i}{\hbar}(Hx-xH)=\frac{i}{\hbar}[H,x] \] Đây là một kết quả rất đẹp và bất ngờ. Tính không giao hoán của các ma trận thực chất lại là động lực của sự biến đổi theo thời gian của ma trận đó. Đây chính là phương trình động lực của electron bằng ma trận, và nó cũng là phiên bản ma trận của phương trình Schrodinger theo thời gian sau này. Chưa hết, bài báo của Heinsenberg còn đưa ra một kết quả nữa là phép đạo hàm theo số lượng tử \(d/dn\), hay là một biểu diễn mới của quy tắc lượng tử Bohn-Summerfield. Đây chính là tiền đề của hệ thức bất định mang tên ông công bố năm 1927, và tôi sẽ trình bày chi tiết hơn trong một bài viết khác. *** Tóm lại, cơ học ma trận của Heisenberg công bố trong bài báo “Về việc diễn giải lại động học và cơ học theo lý thuyết lượng tử.” và hoàn thiện trong 2 bài báo tiếp theo trong năm 1925 đã mở ra một chương mới của Vật lý, lý thuyết Cơ học lượng tử. Đây là nền tảng của lý thuyết của các hạt vi mô và vật chất nói chung. Cơ học lượng tử đã đứng vững và chính xác tuyệt đối sau này, thể hiện tầm nhìn và sự sáng suốt vĩ đại của các nhà khoa học hơn một thế kỷ trước. Đây cũng là lần đầu tiên Toán học được đưa vào sử dụng để xây dựng mô hình Vật lý nhiều đến như vậy. Điều đó cho thấy bản chất sâu xa của vật chất là phức tạp hơn chúng ta tưởng, hơn các chuyển động hàng ngày chúng ta thấy trước mặt như quả táo rơi, hòn bi lăn,... Để hiểu được vật chất và sự vận hành của vật chất chúng ta đã vận dụng những công cụ toán học trừu tượng và phức tạp, đến mức Einstein trong thời gian đầu cũng không tán thành cơ học lượng tử (ông luôn muốn tìm cách biểu diễn bằng những công thức đơn giản). Tuy nhiên điều này cũng gợi mở những câu hỏi sâu xa về ý nghĩa của Cơ học lượng tử và bản chất tồn tại của vật chất? **Nguyễn Quang** **Tham khảo:** 1. [https://www.youtube.com/watch?v=oVzzlkkYGY8](https://www.youtube.com/watch?v=oVzzlkkYGY8) (This is how Heisenberg created quantum mechanics - a step-by-step guide) 2. [https://www.youtube.com/watch?v=IcSMWC-2kew&list=PLG6kLm-LDbaCJhFMH8S7vVj8U_itLoik4&index=8](https://www.youtube.com/watch?v=IcSMWC-2kew&list=PLG6kLm-LDbaCJhFMH8S7vVj8U_itLoik4&index=8) (Development of Heisenberg's matrix mechanics)

Thứ Ba, 25 tháng 1, 2022

R. Feymann "The pleasure of finding things out" - Niềm vui khám phá - Chương III "Los Alamos từ góc nhìn cấp dưới"

 

Chương III: Los Alamos từ góc nhìn cấp dưới

Người dịch: Nguyễn Quang

 

Lời giới thiệu: Chúng ta hãy nói một chút về những chuyện nghịch ngợm của Feynman ở ngay Los Alamos: như là tự biến phòng chung thành phòng riêng cho mình bằng cách phá quy định không có phụ nữ trong ký túc xá nam; hay qua mặt các kiểm duyệt của trại, hay sánh vai cùng những vĩ nhân như Robert Oppenheimer; Niels Bohr và Hans Bethe; hay trở nên khác biệt khi trở thành người duy nhất nhìn thẳng vào vụ nổ nguyên tử đầu tiên không cần kính bảo vệ. Đó là một trải nghiệm đã thay đổi Feynman mãi mãi.

Cám ơn giáo sư Hirschfelder đã quá lời, bài nói chuyện của tôi có tên “Los Alamos từ góc nhìn cấp dưới”. Ý tôi muốn nói cấp dưới là vì mặc dù trong lĩnh vực của tôi ở thời điểm hiện tại tôi cũng có chút tiếng tăm nhưng vào thời điểm đó thì tôi không hề nổi tiếng. Thậm chí tôi còn chưa có bằng Tiến sĩ khi bắt đầu làm việc cho Dự án Manhattan(1). Nếu nghe về Los Alamos thì có thể là bạn nghe từ những người cấp cao trong chính phủ hay đại loại nào đó, những người thường phải đưa ra nhưng quyết định lớn nào đó. Còn tôi khi đó không nghĩ gì lớn lao cả, tôi chỉ là cấp dưới và hài lòng với chính mình. Dù không phải vị trí cuối cùng, thậm chí là sau dự án tôi còn được thăng lên vài cấp nhưng cũng chưa phải hàng ngũ những lãnh đạo đâu. Như thế để quý vị đặt mình vào vị trí của tôi, một nghiên cứu sinh trẻ mới tốt nghiệp Đại học còn đang viết luận văn chứ không như tiêu đề dẫn. Tôi sẽ bắt đầu bằng chuyện tôi đã tham gia dự án như thế nào, rồi đến những gì tôi gặp. Đó là tất cả những gì tôi biết trong suốt dự án.

Một hôm khi đang làm việc thì Bob Wilson(2) bước vào văn phòng(3). Tôi đang làm việc - bạn đang cười cái gì vậy? tôi còn nhiều thứ vui hơn để kể rất nhiều;  Bob Wilson bước vào và nói rằng ông ấy được tài trợ để làm một công việc bí mật và không nên nói cho ai biết, nhưng ông ấy sẽ nói với tôi vì biết khi nghe xong tôi sẽ chấp thuận tham gia dự án này. Ông ấy nói về vấn đề phân tách các đồng vị uranium để chế tạo một quả bom. Đó là một quy trình phân tách đồng vị của uranium khác với loại được sử dụng cuối cùng, và ông muốn thử phát triển nó. Ông ấy nói sẽ có một cuộc họp. . . Tôi nói rằng tôi không muốn làm cái đó đâu. Ông ấy nói được rồi, cuộc họp sẽ diễn ra vào lúc 3 giờ và sẽ gặp tôi ở đó. Tôi nói ok, về bí mật thì tôi sẽ không nói với ai nhưng tôi sẽ không tham gia đâu. Tôi quay trở lại làm luận văn của tôi nhưng chỉ khoảng ba phút sau thôi, tôi đi vòng vòng quanh sàn nhà và nghĩ ngợi. Người Đức có Hitler và có khả năng chế tạo quả bom nguyên tử, hiển nhiên. Và nếu họ làm ra trước chúng ta thì rất đáng sợ. Vì vậy, tôi quyết định đi họp lúc ba giờ. Và đến 4 giờ là tôi đã ngồi vào bàn để cố gắng tính toán xem phương pháp này có bị giới hạn bởi tổng dòng điện mà bạn có thể có trong một chùm ion hay không, v.v. Tôi sẽ không đi vào chi tiết. Nhưng tôi đã bắt đầu giấy bút ngay, làm miệt mài nhanh nhất có thể. Những người đang xây dựng cỗ máy đã lên kế hoạch để làm thí nghiệm ngay tại đó. Cảnh trông giống như những thước phim với những phần thiết bị được ghép vào brụp, brụp, brụp. Mỗi lần nhìn vào là thấy cỗ máy lớn hơn trước. Ai cũng gác lại công việc nghiên cứu của mình để tham gia dự án. Cả ngành khoa học đã ngừng lại trong chiến tranh ngoại trừ một phần nhỏ này được thực hiện ở đây Los Alamos. Mà đúng hơn nó không phải là khoa học mà là kỹ thuật. Người ta mang các máy móc từ các dự án nghiên cứu khác nhau tập hợp lại để chế tạo ra thiết bị thí nghiệm mới cho phân tách các đồng vị uranium. Tôi đã dừng công việc của mình cũng vì lý do tương tự. Đúng hơn tôi đã xin phép 6 tuần để tập trung viết luận án cho xong rồi mới tiếp tục tham gia. Coi như tôi đã lấy được bằng PhD ngay trước khi đến Los Alamos, cũng không phải đáy của đáy đúng không ạ. 

Một trong những trải nghiệm thú vị đầu tiên của tôi trong dự án này ở Princeton là được gặp gỡ những cây đa cây đề, tôi chưa từng gặp nhiều người như thế bao giờ. Một hội đồng được lập ra để đánh giá các phương pháp tách đồng vị uranium và cần phải quyết định một hướng cuối cùng. Hội đồng có những nhà khoa học như Tolman, Smyth, Urey, Rabi, Oppenheimer, v.v. trong đó. Và có cả Compton nữa. Một trong những điều tôi thấy là sốc là tôi được ngồi đó vì tôi hiểu phần lý thuyết của quá trình chúng tôi đang làm và vì vậy họ sẽ thường đặt câu hỏi cho tôi và sau đó chúng tôi sẽ thảo luận tiếp. Ai đó sẽ đưa ra một ý kiến và một người khác, ví dụ như Compton, sẽ giải thích một quan điểm khác, và ông ta đúng, đó là cách đi đúng và ông cho rằng cần phải làm theo cách này. Rồi một người khác lại nói có thể có một khả năng cần phải xem xét, tôi mừng rỡ. Nhưng rồi Compton lại nói lại, khẳng định lại. Và thế là mọi người không đồng ý với nhau, cứ vậy lặp đi lặp lại quanh bàn thảo luận. Cuối cùng thì Tolman, chủ tịch hội đồng, nói “tốt rồi, sau khi nghe tất cả những tranh luận tôi cho rằng lập luận của Compton là tốt nhất và bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục đi theo hướng đó. Tôi thực sự bị sốc khi thấy một hội đồng gồm nhiều thành viên trình bày rất nhiều ý tưởng khác nhau, mỗi người một khía cạnh mới, và có người chăm chú ghi nhớ hết tất cả những ý kiến đó rồi tổng hợp lại để đưa ra quyết định cuối cùng. Ngắn gọn, không bàn nhiều, bạn thấy không? Đó là một cú sốc với tôi bởi đây thực sự là ở đây toàn những người con người rất vĩ đại.

Dự án cuối cùng đã quyết định được sẽ dùng cách khác để chia tách đồng vị uranium. Chúng tôi được thông báo sẽ dừng việc chia tách ở đây và bắt đầu lại ở Los Alamos, New Mexico. Dự án sẽ chế tạo quả bom cuối cùng và tất cả chúng tôi sẽ đến đó để thực hiện nó. Sẽ có những thí nghiệm mà chúng ta phải làm và những phần lý thuyết phải làm. Tôi làm phần lý thuyết còn lại tất cả đều làm thực nghiệm. Khi đó câu hỏi đặt ra là làm gì bây giờ trong khoảng thời gian gián đoạn này vì máy móc ở đây sẽ đóng lại còn Los Alamos thì chưa sẵn sàng. Bob Wilson tận dụng thời gian này bằng cách gửi tôi đến Chicago để tìm hiểu tất cả những cần biết về quả bom và các vấn đề gặp phải để có thể bắt đầu xây dựng thiết bị thí nghiệm của mình, có tính đến các phương án khác nhau, v.v.., những kiến thức hữu ích chuẩn bị cho Los Alamos. Coi như không có thời gian lãng phí nào. 

Tôi được cử đi Chicago với lời dặn phải làm việc với từng nhóm, nói với họ rằng tôi sẽ làm việc với họ và yêu cầu họ nói vấn đề nào họ gặp phải trong hướng của tôi. Khi đó tôi sẽ có thể bắt đầu làm việc vào vấn đề luôn. Và cứ như vậy hết tất cả các nhóm thì tôi sẽ hiểu chi tiết về mọi thứ. Đó là một ý kiến hay dù là trực giác tôi cảm thấy bất ổn một chút. Thế nhưng một cách tình cờ, và may mắn nữa, khi một người kể cho tôi một vấn đề anh ta đang làm, tôi nói anh cần phải làm thế này và trong nửa giờ anh ta đã giải quyết được vấn đề đã bế tắc trong suốt ba tháng. Vậy là tôi đã có chút đóng góp! Khi từ Chicago trở về tôi trình bày lại kịch bản: bao nhiêu năng lượng sẽ được giải phóng, quả bom sẽ như thế nào, v.v. cho mọi người ở đây. Tôi nhớ một đồng nghiệp là Paul Olum, một nhà toán học, đã đến gặp tôi sau sau đó và nói, "Khi nào người ta làm phim tài liệu về dự án này chắc chắn sẽ có cảnh một anh chàng từ Chicago về, trong trang phục vest với một chiếc cặp, nói vanh vách cho những quý ông ở Princeton tất tần tật về quả bom đấy. Mặc dù là bây giờ cậu đang mặc chiếc áo sơ mi khá bẩn thỉu." Nhưng dù sao thì đó cũng là một điều rất quan trọng cho dù anh ấy nhận ra sự khác biệt giữa thế giới thực và trong phim.

Dường như công việc bị chậm và Wilson đã phải đến Los Alamos để xem xét tình hình đang tiến triển như thế nào. Ông ta thấy các công ty xây dựng đang làm việc rất chăm chỉ và đã xong hội trường và một số tòa nhà khác vì họ hiểu cách làm, còn về phòng thí nghiệm thì họ không có ai hướng dẫn: bao nhiêu đường ống cho khí, cho nước - vì vậy Wilson ở lại và đứng làm luôn cùng họ, chỉ rõ bao nhiêu nước, khí, ... vào phòng thí nghiệm. Khi Wilson quay lại tất cả chúng tôi đã sẵn sàng đi, thế nhưng, bạn thấy đấy, Oppenheimer còn thảo luận một vài vướng mắc với Groves và chúng tôi đã trở nên mất kiên nhẫn. Theo những gì tôi hiểu thì Wilson sau đó đã gọi cho Manley ở Chicago, họ đã họp lại với nhau và quyết định chúng tôi sẽ tới đó ngay. Và tất cả chúng tôi đã đến Los Alamos trước khi nó đã sẵn sàng. Chúng tôi được tuyển dụng bởi Oppenheimer và ông ấy rất quan tâm đến mọi người. Ông ấy hỏi thăm vợ tôi đang bị bệnh lao, liệu có bệnh viện ngoài đó và có đủ phương tiện hay không. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy một cách riêng tư như vậy và ông ấy là một con người tuyệt vời. Chúng tôi còn được dặn một số những điều phải cẩn thận như không mua vé tàu ở Princeton. Bởi vì Princeton là một ga xe lửa rất nhỏ và nếu mọi người cùng lúc mua vé tàu đến Albuquerque, New Mexico thì người ta sẽ nghi ngờ rằng có điều gì đó đang xảy ra. Và vì vậy mọi người đều mua vé ở nơi khác ngoại trừ tôi. Thế nên khi tới ga và nói rằng tôi muốn đi tới Albuquerque, New Mexico, thì nhà ga nói rằng đống hàng kia là của tôi hết. Chúng tôi đã vận chuyển các thùng đồ đạc trong suốt nhiều tuần và hy vọng là họ không nhận ra rằng địa chỉ là Albuquerque. 

Chúng tôi đã đến sớm khi mà nhà ký túc xá và những thứ tương tự vẫn chưa xây xong. Các phòng thí nghiệm vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng. Bằng cách tới sớm chúng tôi đã hối thúc họ. Họ cũng phát điên lên và thuê các trang trại gần đó. Và thế là ngày đầu chúng tôi ở trong một trang trại và lái xe đến làm vào buổi sáng. Buổi sáng đầu tiên tôi lái xe thật là ấn tượng; phong cảnh quá đẹp nhất là đối với một người từ miền Đông không đi du lịch nhiều. Có những vách đá lớn như bạn có thể đã thấy trên những bức ảnh, tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết. Chúng rất cao và khi bạn đi lên từ bên dưới và nhìn thấy những vách đá tuyệt vời này đẹp không tả nổi. Điều ấn tượng nhất đối với tôi là khi đi lên tôi chợt nghĩ có khi có cả người Da đỏ sống ở đây chăng. Và anh chàng điều khiển xe dừng lại, đi vòng quanh các ngõ ngách của vách đá và đúng là có những hang động của người Da đỏ mà bạn có thể khám phá. Thật là thú vị.

Khi tôi đến nơi làm lần đầu tiên, tôi thấy ở cổng có khu kỹ thuật và tôi nghĩ là có hàng rào xung quanh nhưng vì họ vẫn đang xây dựng nên vẫn mở. Tiếp theo có lẽ là có một thị trấn và sau đó là một hàng rào rộng lớn hơn nữa xung quanh thị trấn. Anh bạn của tôi Paul Olum, người là trợ lý của tôi, đang đứng với một cái bảng tạm kiểm tra những chiếc xe tải ra vào và chỉ đường để họ đưa vật liệu đến những nơi khác nhau. Khi vào đến phòng thí nghiệm tôi gặp những người mà trước đó chỉ được nghe khi xem bài báo của họ trên tạp chí Physical Review, v.v. Tôi chưa từng gặp mặt họ bao giờ. Họ nói đây là John Williams, một người đứng dậy khỏi bàn làm việc có in màu xanh lam, tay áo xắn lên và đứng bên một số cửa sổ tại một trong những tòa nhà, ra lệnh cho những xe tải chở đồ đạc đến những nơi khác nhau để xây dựng đồ đạc. Nói cách khác, chúng tôi đã như người của công ty xây dựng và hoàn thiện công việc. Các nhà vật lý nhất là vật lý thực nghiệm trong giai đoạn khởi đầu không có gì để làm cho đến khi tòa nhà, máy móc của họ đã sẵn sàng, nên đã tham gia tích cực vào việc xây dựng các tòa nhà. Mặt khác thì người ta đã quyết định các nhà vật lý lý thuyết có thể ở ngay tại công trường vì họ có thể bắt đầu làm việc ngay lập tức. Và chúng tôi bắt đầu ngay với mỗi người một chiếc bảng đen cuộn được, bạn biết đấy, đặt trên bánh xe và đẩy đi xung quanh được. Chúng tôi đẩy nó đi xung quanh và Serber sẽ giải thích cho chúng tôi tất cả những gì họ đã bàn ở Berkeley về quả bom nguyên tử, về vật lý hạt nhân và những thứ tương tự. Tôi chưa hiểu rõ lắm vì tôi làm ở khía cạnh khác, nên tôi phải cày thêm rất nhiều. Đọc, học và nghiên cứu mỗi ngày nhưng đó là khoảng thời gian rất vui vẻ. Tôi đã gặp may mắn. Tất cả các sếp lớn đều bận lúc này lúc kia như Weisskopf phải quay lại để sửa một cái gì đó ở MIT, Teller thì đi vắng, ngoại trừ Hans Bethe; Và Bethe cần một người nào đó để thảo luận và phản biện lại những ý tưởng của ông ta. Chà, và ông ấy đi đến chỗ tôi để giải thích ý tưởng của mình. Tôi nói, “Không, không, thật điên rồ, nó phải thế này.” Và ông nói “Chờ chút,” rồi giải thích mình không hề điên rồ và rằng tôi mới là người điên rồ, và chúng tôi tiếp tục như vậy. Kết cục là, bạn thấy đấy, khi tôi nghe về vật lý thì tôi chỉ nghĩ về vật lý và không cần biết tôi đang nói chuyện với ai. Nên tôi có thể nói những câu kiểu như "không, không, bạn sai rồi hoặc bạn điên rồi" - nhưng hóa ra là điều đó thực sự lại là những gì Bethe cần thiết. Và tôi đã được đánh giá cao và đề bạt là trưởng nhóm với bốn người dưới quyền, báo cáo cho Bethe.

Tôi đã có rất nhiều trải nghiệm thú vị với Bethe. Ngày đầu tiên khi ông ấy đến chúng tôi có một máy tính cộng, một chiếc hiệu Marchant nhập số bằng tay. Ông nói “Hãy thử tính áp suất” - ông ấy đang cần một công thức có bình phương áp suất - “áp suất là 48; bình phương 48?". Tôi với lấy cái máy và định tính thì ông nói khoảng 2300. Tôi định tính thử xem sao. "Anh muốn biết số chính xác chứ gì, 2,304." Bethe nói. Trên máy cũng vừa xuất hiện 2,304. Tôi hỏi "Ông tính như thế nào vậy?" Ông ấy nói, “Anh không biết cách lấy bình phương các số gần 50 sao? Nếu nó gần 50, giả sử là 50-3 thì cứ xấp xỉ bằng 25 trừ 3 nhân 100, tức là 47 bình phương thì xấp xỉ bằng 2,200. Và phần thiếu thì lấy phần chênh bình phương lên cộng vào. Ví dụ trên thì là cộng thêm 3 bình phương là 9, tức là 9 + 2,200 = 2,209 đó. Hay chứ, ok?”

Ông ấy quả là rất giỏi số học. Tiếp đến chúng tôi phải lấy căn bậc ba của là 2 1/2. Và để lấy căn chúng tôi dùng một biểu đồ nhỏ được trang bị trên máy cộng Marchant kia. Tôi vừa tính lấy ra thì Bethe đã nói “1.35”. Tôi cứ nghĩ là có cách mà hóa ra không phải. Tôi hỏi Bethe “Ông làm thế nào vậy? ” Ông nói,“Oh, giả sử anh có logarithm của 2,5 thì chia cho 3 đi, sẽ được 0.13. Rồi thử xem số nào có log là 0.13? Thử lấy log của 1.3 là đây, log của 1.4 là đây, vậy đâu đó ở giữa 1.3 và 1.4 sẽ có log là 0.13. Nên đáp án là khoảng 1.35!” (Tôi cứ nghĩ là chia cho số nào đó thấp hơn 3 nhiều chứ không nghĩ theo cách đó). Ông rất giỏi số học và khiến tôi phải vất vả đuổi theo.  Tôi tiếp tục thực hành bằng những cuộc thi nhỏ. Mỗi khi chúng tôi phải tính toán bất cứ điều gì tôi và Bethe sẽ thi nhau xem ai giải ra trước. Sau vài năm thì tôi cũng kịp ông và thắng nhiều hơn. Bằng cách đó bạn sẽ nhận những điều thú vị trong các con số? Chẳng hạn nếu phải nhân 174 với 140? Coi như xấp xỉ 173 x 141 đi thì tức là căn bậc hai của 3 nhân với căn bậc hai của 2 nhân 100 nhân 100, thì sẽ bằng căn bậc hai của 6 nhân 10,000 tức là cỡ 24,500. Hãy chú ý đến những con số, và mỗi người có thể sẽ chú ý một cách khác nhau - chúng tôi đã có những khoảng thời gian rất vui vẻ.

Khi mới đến như tôi đã nói, chúng tôi không có phòng ngủ. Các nhà vật lý lý thuyết phải ở lại công trường. Đầu tiên họ cho chúng tôi ở trong tòa nhà của một ngôi trường cũ trước đây, một trường của nam sinh. Nơi đầu tiên tôi sống là một cái gọi là nhà nghỉ cơ khí; tất cả chúng tôi ngủ trên những chiếc giường tầng được sắp xếp không tốt đến nỗi mà Bob Christie và vợ mỗi khi đi vào nhà vệ sinh đều phải đi qua dãy giường ngủ của chúng tôi. Không được thoải mái chút nào. Sau đó chúng tôi chuyển đến một nơi gọi là Ngôi nhà lớn, có một sân vòng quanh phía bên ngoài của tầng hai, nơi đặt các giường nối tiếp nhau dọc tường. Ở tầng dưới  có một bản đồ lớn chỉ rõ số giường của bạn là bao nhiêu và phải dùng phòng tắm nào. Nhưng đến tên của tôi chỉ nó nói "Phòng tắm C," không có số giường! Nó làm tôi khá bất tiện. Cuối cùng thì khu nhà nghỉ cũng được xây dựng và tôi tới để đăng ký phòng. Họ cho tôi chọn và bạn biết tôi đã làm gì không? - Tôi tìm xem khu ký túc xá nữ ở đâu và chọn một phòng hướng nhìn ra khu đó. Sau này tôi phát hiện ra một cái cây chắn ngang tầm nhìn này. Nhưng dù sao tôi đã chọn căn phòng này rồi. Họ nói rằng tạm thời sẽ có hai người trong một phòng, chỉ là tạm thời. Hai phòng sẽ sử dụng chung một phòng tắm. Sẽ có giường hai tầng, giường tầng, còn tôi không thích ở hai người trong phòng. Đêm đầu tiên ở đây thì chỉ có mình tôi. Vợ tôi bị ốm và bị kẹt lại Albuquerque, còn tôi mang trước một số đồ của cô ấy. Thế là tôi mở đồ ra và quăng đại một chiếc váy ngủ của vợ lên chiếc giường tầng trên. Tôi lấy dép trong nhà đi vào phòng tắm và vẩy xà bông ra sàn, làm như có người mới vào tắm. Được chứ?

Nếu như chiếc giường trên bừa bộn thì chắc sẽ không có ai vào đây ngủ đâu, OK? Và rồi chuyện gì xảy ra? Đây là khu nhà của nam. Chà, tối hôm đó tôi về đến nhà thì bộ đồ ngủ của tôi đã được gấp gọn gàng và để dưới gối, và đôi dép lê được đặt rất đẹp ở cuối giường. Bộ váy ngủ phụ nữ cũng được gấp rất đẹp và đặt dưới gối của giường tầng trên. Giường cũng được dọn gọn gàng, dép trong nhà được đặt ngay ngắn. Sàn phòng tắm được rửa sạch và không có ai vào ngủ cả. Vẫn chỉ có mình tôi một phòng này. Hôm sau lại diễn ra tương tự. Tôi thức dậy với chiếc giường lộn xộn, tôi ném chiếc váy ngủ ở giường trên, xả bột vào trong phòng tắm, .., và cứ thế trong suốt bốn đêm. Cuối cùng cũng kết thúc, mọi người có vẻ đã ổn định và không có thêm ông nào được xếp vào phòng tôi. Mọi thứ đều gọn gàng ngăn nắp dù là khu phòng ngủ của nam. Đó là những gì đã xảy ra.

Cuối cùng tôi cũng bị dính vào chính trị vì cái gọi là “Hội đồng khu phố". Quân đội quy định một số việc chính của khu phố còn lại sẽ có một hội đồng trợ giúp, và tôi thì chẳng biết gì về những thứ này. Nhưng nó cũng sẽ giống như mọi nơi có dính dáng đến chính trị, tức là cũng có các phe phái: phe nội trợ, phe thợ máy, phe kỹ thuật, v.v. Chà, các cô cậu cử nhân sống trong ký túc xá cũng cảm thấy họ phải có đại diện vì một quy tắc mới ban hành cấm phụ nữ trong ký túc xá nam. Điều này hoàn toàn vô lý, ở đây đều là những người trưởng thành (ha, ha). Sao lại có những quy định kỳ cục vậy, thế nên chúng tôi quyết định phải đấu tranh; Và bạn biết sao không? Tôi được bầu làm người đại diện cho ký túc xá trong Hội đồng khu phố.

Sau khi ở trong Hội đồng thị trấn khoảng một năm hơn, cỡ một năm rưỡi tôi đã nói chuyện với Hans Bethe. Ông ấy đã ở trong Hội đồng khu phố từ đầu đến đến giờ. Tôi kể cho ông ấy nghe câu chuyện tôi bày đồ của vợ tôi ở giường trên và ông ấy bắt đầu cười. Ông ta nói, "Ha ha, đó là lý do vì sao anh vào Hội đồng Thị trấn." Chuyện đã xảy ra là thế này. Có một báo cáo, rất nghiêm túc, của một người phụ nữ lao công trong ký túc xá. Cô lao công tội nghiệp run rẩy báo có sự cố - ai đó đang ngủ với một trong những người đàn ông ở khu ký túc xá mới xây! Cô ấy rất lo lắng không biết phải làm gì. Cô ấy báo cáo lại cho người phụ phụ trách vệ sinh, cô này báo cáo cho trung úy, trung úy báo cáo cho thiếu tá, cứ thế đi lên đến cả các tướng và đến ban quản trị khu. Họ sẽ xử lý thế nào? - họ sẽ suy nghĩ thêm! Vậy là trong khi chờ đợi, những người này chỉ thị xuống, từng bước, qua thiếu tá, xuống trung úy, qua trưởng phụ trách vệ sinh đến người phụ nữ lao công - “Hãy sắp xếp mọi thứ gọn gàng lại như cũ và xem điều điều gì sẽ xảy ra”. OK? Hôm sau lại có báo cáo tương tự tiếp tục vrùm vrùm vrùm đi lên đi xuống. Cứ thế trong bốn ngày, họ lo lắng và ra chỉ thị “Cấm phụ nữ vào ký túc xá nam!" Và điều đó đã tạo ra sự phản ứng như vậy đó. Anh thấy đấy, không thể tránh được mấy chuyện chính trị và phải bầu ra người đại diện thôi.…

Bây giờ tôi sẽ kể về sự kiểm duyệt. Họ đã quy định một điều hoàn toàn bất hợp pháp đó là kiểm duyệt thư từ của mọi người, họ không có quyền làm điều này. Vì vậy họ đã sắp xếp một cách khéo léo để nó như là một sự tự nguyện. Tất cả chúng tôi sẽ tình nguyện không dán phong bì khi gửi đi và cũng sẽ chấp nhận những lá thư mình nhận có thể bị mở một cách tự nguyện. Thư gửi đi sẽ mở; nếu ổn họ sẽ dán và gửi đi, nếu họ không đồng ý theo quan điểm của họ, ví dụ họ tìm thấy thứ gì đó mà chúng ta không nên gửi đi, họ sẽ gửi thư ngược cho chúng tôi kèm theo một tờ ghi chú là là nó vi phạm đoạn nào trong “điều cam kết của chúng tôi”, v.v., v.v. Và rồi, một cách rất tế nhị, tất cả những nhà khoa học có tư tưởng tự do đồng ý với một đề xuất như vậy và cơ chế kiểm kiểm duyệt đã được thiết lập. Có nhiều quy tắc chẳng hạn như chúng tôi được phép nhận xét về đặc điểm của chính quyền nếu chúng tôi muốn, có thể viết thư cho thượng nghị sĩ của mình và nói với ông ấy rằng chúng tôi không thích cách mọi thứ đang diễn ra và những điều tương tự. OK? tất cả đã được thiết lập và họ sẽ thông báo cho chúng tôi nếu có bất kỳ khó khăn nào.

Mọi thứ bắt đầu và trong ngày đầu tiên kiểm duyệt, điện thoại tôi rung lên. "Có chuyện gì?" "Xin hãy xuống đây." Tôi đi xuống. "Đây là gì?“ Đó là thư của bố tôi gửi. “Gì đây?” Giấy viết thư có kẻ dòng, và những dòng này có các dấu chấm - bốn chấm dưới, một chấm trên, hai chấm dưới, một chấm trên, chấm dưới chấm. “Đó là gì?” Tôi nói, “Đó là một mã.” Họ nói, “Đúng, đó là một mật mã; cái đó nó nói gì? ” Tôi nói, “Tôi không biết gì cả.“ Họ lại nói: ”Oh, thế chìa khóa giải mã là gì? Anh làm thế nào để bạn giải mã? " Tôi nói, "Chà, tôi không biết thật." Sau đó, họ nói, "Đây là cái gì?" Tôi nói, "Đó là một bức thư của vợ tôi." “Thư mà lại viết TJXYWZ TW1X3 là sao?" Tôi nói, "Mật mã đấy" "Chìa khóa của nó là gì?" "Tôi không biết." Họ nói, "Anh nhận được mật mã mà lại không biết khóa?" “Đúng thế,” tôi nói, “Chúng tôi đang chơi trò chơi, tôi thách cô ấy gửi cho tôi một mã mà tôi không thể giải mã được, thấy không? Cô ấy tạo mã và không cho tôi biết chìa khóa là gì và gửi cho tôi." Một trong những quy tắc kiểm duyệt ở đây là sẽ không làm phiền bất cứ điều gì mà bạn làm thường xuyên, qua thư. Vì vậy họ nói, "Chà, anh phải yêu cầu người gửi gửi kèm mã khóa đi." Tôi nói, “Tôi không muốn thế”. Và rồi họ nói, "Được rồi, chúng tôi sẽ tự tìm mã." Chúng tôi đã thỏa thuận như vậy. Ngày hôm sau, tôi nhận được một lá thư từ vợ tôi có nội dung "Em thấy rất khó viết vì có cảm giác như có ai đang nhìn qua vai mình." Và ở dấu chấm có một vết mực được tẩy kín đáo. Tôi liền đi xuống văn phòng và nói, "Các anh không được phép sửa thư nếu không thích nó, cứ gọi tôi xuống nhưng không được phép sửa vào nó. Các anh có thể coi nhưng đừng làm tùy tiện thay đổi." Họ nói, “Đừng lố bịch; anh nghĩ chúng tôi kiểm duyệt với chiếc bút xóa? Chúng tôi chỉ cần dùng kéo cắt đi thôi ” Tôi nói “OK”, và viết lại hỏi vợ tôi, “Em có dùng bút xóa trong thư không?” Cô ấy viết lại, “Không, em không hề dùng bút xóa, chắc là do ….”, và thư bị cắt lỗ. Thế là tôi đến gặp người người phụ trách, một anh thiếu tá phụ trách mọi thứ ở đây. Việc này đã xảy ra nhiều ngày rồi và tôi cảm thấy mình là người đại diện để giải quyết vấn đề một cách thẳng thắn. Anh ấy cố gắng giải thích với tôi rằng những người là người kiểm duyệt này được dạy cách làm điều đó, và họ không hiểu rằng ở chỗ mới này phải rất tế nhị. Tôi nói “Chúng tôi đang đi lên tuyến đầu, ở đây đều là những người có khả năng xuất sắc nhất nước. Tôi phải viết thư qua lại cho vợ tôi mỗi ngày.” Vì vậy anh ấy nói, "Có gì lớn đâu, anh hãy nghĩ rằng chúng tôi cũng có ý tốt, chúng tôi muốn làm điều tốt thôi." Tôi nói, "Đúng là các anh hoàn toàn có ý tốt nhưng tôi không nghĩ các anh có quyền làm những chuyện đó." “Anh thấy đấy nó diễn ra trong ba, bốn ngày nay rồi.” Anh ấy nói "Vâng chúng tôi sẽ xem xét lại!" Anh ta với lấy điện thoại … và mọi thứ đã được rõ ràng. Tôi không còn bị cắt thư nữa.

Tuy thế vẫn còn có một số trục trặc nho nhỏ. Ví dụ, một hôm tôi nhận được một bức thư từ vợ gửi và một ghi chú từ người kiểm duyệt nói rằng thư có chứa một đoạn mã, và vì không có chìa khóa nên chúng tôi đã gỡ nó ra. Khi tôi gặp lại vợ tôi ở Albuquerque vào ngày hôm đó, cô ấy hỏi "Những thứ em dặn đâu rồi?" Tôi nói, "Thứ gì?" Cô ấy nói "Lethage, glycerine, xúc xích, quần áo?" Tôi nói, "Oh chờ chút, như một danh sách?" Cô ấy nói, "Đúng rồi". “À thế thì họ tưởng đấy là một mật mã rồi” tôi nói. Họ nghĩ rằng đó là một ký tự mã, glycerin, v.v. 

Một hôm khác tôi đang loanh quanh - đó là trong những tuần đầu tiên, và vài tuần trước khi vào việc chính. Lúc đó tôi loay hoay với những máy cộng, máy tính và tôi không biết gì cả. Tôi thực hành mỗi ngày, nhiều thứ phải viết, khá là đặc biệt. Ví dụ như lấy 1 chia cho 243 bạn được 0,004115226337, khá chính xác. Sau đó nó hơi phức tạp khi chỉ với khoảng ba con số bạn có thể thấy 10 10 13 tương đương với 114, rồi 115 một lần nữa và cứ thế tiếp tục sau vài chu kỳ. Tôi nghĩ nó khá thú vị. Vì thế tôi viết thư và thư bị trả về; nó bị kiểm duyệt với ghi chú "Hãy xem điều 17B." Tôi xem điều 17B có nói rằng “Các bức thư chỉ được viết bằng tiếng Anh, Nga, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Latinh, Đức, v.v. sử dụng bất kỳ ngôn ngữ nào khác phải được xin phép bằng văn bản. ” Và sau đó có nói "Không viết mật mã." Tôi viết lại cho người kiểm duyệt nói rằng tất nhiên đây không thể là một mã, bởi vì lấy 1 chia 243 thì được như vậy …. tôi chỉ viết thế thôi, không có thêm thông tin nào trong số 1-1-1-1-0-0-1-1 là dạng nhị phân của số 243 chứ không có bất kỳ thông tin nào khác. Và kể từ đó trở đi tôi xin phép viết trong thư các chữ số Ả Rập. Tôi thích sử dụng chữ số Ả Rập trong thư của mình và được phê duyệt ngay.

Nhưng việc thư từ vẫn còn những điều phiền toái.  Có lúc vợ tôi viết rằng cô ấy cảm thấy không thoải mái khi viết thư mà có cảm giác người kiểm duyệt đang đứng đằng sau nhìn qua vai. Chúng tôi cũng đề ra một quy tắc là không nói đến chuyện kiểm duyệt trong thư nhưng làm sao tôi có thể ngăn cô ấy được? Và thế là họ vẫn gửi ghi chú cho tôi nói “Trong thư vợ của anh nói kiểm duyệt.” Đúng là vợ tôi đã nói đến kiểm duyệt vì vậy họ đã gửi thư cho tôi nói "Xin vui lòng nói vợ anh đừng đề cập đến kiểm duyệt trong thư nữa." Vì vậy tôi bèn viết thư cho vợ với bắt đầu là "Anh được dặn là phải bảo em không đề cập đến kiểm duyệt thư nữa." Phùm phùm, thư quay lại tôi ngay lập tức! Vì vậy, tôi viết cho họ “Thì tôi đã cố gắng nói với cô ấy không đề cập đến kiểm duyệt. Tôi sẽ làm cái quái gì thế này? Hơn nữa, vì sao tôi lại phải dặn cô ấy không đề cập đến việc kiểm duyệt? Các anh đang giấu gì tôi? " Có một điều rất thú vị là chính người kiểm duyệt phải nói với tôi hãy nói với vợ tôi rằng đừng nói với tôi rằng cô ấy ... Nhưng họ đã có câu trả lời. Họ nói đúng rằng họ áy náy về việc thư bị xem trên đường từ Albuquerque và họ cần phải nhìn trong thư để không có gì bất thường. Vì vậy lần sau đến Albuquerque tôi nói với cô ấy "Em xem đừng đề cập đến kiểm duyệt nữa". Nhưng chúng tôi vẫn gặp rắc rối và rốt cuộc chúng tôi đã tìm ra một cách, cũng bất hợp pháp. Đó là: nếu tôi đặt một dấu chấm ở cuối chữ ký có nghĩa là tôi lại gặp rắc rối và cô ấy sẽ chuyển chuyện khác. Có thể cô ấy ngồi ở nhà cả ngày không có chuyện gì vì đang ốm, nên sẽ nghĩ ra những việc để làm. Còn chuyện cuối cùng này là cô ấy gửi thư cho tôi theo một quảng cáo có nội dung "Gửi thư cho bạn trai của bạn ở bên trong một bức tranh ghép hình. Chúng tôi sẽ gửi bạn tấm bìa, bạn viết vào đó và ghép các mảnh ghép lên, cho vào bao và gửi đi”. Cô ấy nghĩ là hợp pháp. Và rồi tôi đã nhận được một cảnh báo ghi “Chúng tôi không có thời gian để chơi trò chơi. Hãy hướng dẫn vợ anh viết thư thông thường thôi.” Chà, tôi đã có thêm một dấu chấm nữa. Tôi còn tính bảo cô ấy viết, "Em hy vọng anh nhớ mở lá thư này cẩn thận vì em gửi cho anh Pepto-Bismol cho dạ dày của anh như đã hứa." Nó sẽ là một lá thư đầy bột, và khi họ sẽ mở nó ra trong văn phòng bột sẽ rơi khắp sàn, họ sẽ rất khó chịu cho mà xem và còn phải dọn dẹp đống Pepto-Bismol này .... Nhưng thôi tôi đâu cần phải làm thế. OK?

Sau tất cả những trải nghiệm này với người kiểm duyệt thì tôi biết chính xác điều gì có thể làm  và điều gì không. Không ai biết rõ như tôi và tôi thậm chí còn kiếm được khoản tiền nho nhỏ bằng cách đặt cược. Một ngày nọ ở hàng rào bên ngoài tôi phát hiện ra rằng những người thợ sống ở ngoài và muốn vào công trường mà lười đi vòng qua cổng, và họ đã tự khoét một lỗ ở hàng rào cách cổng một khoảng. Tôi đi ra ngoài hàng rào, chui qua cái lỗ vào trong, rồi lại chui ra và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi anh chàng trung sĩ ở cổng bắt đầu tự hỏi điều gì xảy ra, vì sao anh chàng này luôn đi ra ngoài và không bao giờ vào trong? Và tất nhiên phản ứng tự nhiên của anh ta là gọi cho trung úy và cố gắng tống tôi vào tù vì làm điều này. Tôi giải thích rằng có một lỗ hổng. Bạn thấy đấy, tôi luôn cố gắng thẳng thắn với mọi người. Và tôi đánh cược với một người là tôi có thể viết thư nói cho anh ta biết cái lỗ trên hàng rào ở đâu và gửi được thư ra ngoài. Và tôi đã làm thật. Tôi viết “Anh sẽ thấy cách họ quản lý ở đây”; bạn thấy đấy - được phép nói nhé. “Có một cái lỗ trên hàng rào cách chỗ đó 71 feet, kích thước thế này và anh có thể chui qua được.” Và rồi họ có thể làm gì? Họ không thể nói với tôi rằng không có lỗ hổng như vậy. Ý tôi là, họ định làm gì, đó là sự may mắn cho chính họ khi chỉ có một lỗ hổng như vậy, họ nên bịt nó đi. Vì vậy mà tôi đã gửi được thư đi. Tôi còn gửi được cả thư kể về câu chuyện một anh chàng làm việc trong một trong những nhóm của tôi đã bị đánh thức vào nửa đêm và bị tra vấn bằng đèn chiếu vào mặt bởi vì quân đội đã phát hiện ra một cái gì đó về cha anh ấy hoặc một cái gì đó. Tôi không biết, anh ta được cho là một người cộng sản. Tên anh ấy là Kamane, bây giờ đã nổi tiếng rồi đấy.

Chà, cũng còn có một số chuyện khác. Tôi luôn cố gắng làm mọi thứ ngăn nắp như chỉ ra những lỗ hổng trên hàng rào, v.v., nhưng tôi chỉ ra những điều này một cách không trực tiếp. Và một trong những điều tôi muốn chỉ ra là: ngay từ đầu chúng tôi đã có những bí mật cực kỳ quan trọng. Chúng tôi đã tìm hiểu rất nhiều thứ về uranium, cách chúng hoạt động ra sao và ghi lại trong những tài liệu được đặt trong những tủ hồ sơ bằng gỗ với những ổ khóa nhỏ rất thông thường. Nhiều thứ khác nhau trong cái tủ được làm sẵn bởi nhà sản xuất, chẳng hạn như một cái que sẽ cắm xuống một ổ khóa để giữ nó, chỉ là một ổ khóa. Hơn nữa, bạn có thể lấy đồ mà không cần mở ổ khóa. Với những chiếc tủ gỗ này chỉ cần nghiêng nó về phía sau và ngăn dưới cùng, bạn biết đấy, có một thanh nhỏ để giữ nó. Và có một lỗ trên tấm gỗ bên dưới; bạn có thể kéo các giấy tờ ra từ bên dưới. Vì vậy, tôi thường chọn ổ khóa và chỉ ra rằng nó rất dễ bị phá. Và mỗi khi chúng tôi họp nhóm tôi đứng dậy và nói rằng chúng ta có những bí mật quan trọng và không nên giữ chúng trong những tủ như vậy, đây là những ổ khóa rất kém. Chúng tôi cần những ổ khóa tốt hơn. Và một ngày nọ, Teller có mặt tại cuộc họp và nói với tôi, “Chà, tôi không giữ những bí mật quan trọng nhất của mình trong tủ hồ sơ mà giữ chúng trong ngăn bàn của mình. Không phải tốt hơn sao? " Tôi nói, "Tôi không biết, tôi chưa thấy ngăn bàn của ông." Ồ, nó ở gần phía trước phòng họp và tôi ngồi ở sau đó. Và khi cuộc họp tiếp tục thì tôi lẻn ra ngoài và xem ngăn kéo của ông ta. OK? Tôi thậm chí không cần phải đụng đến ổ khóa của ngăn bàn. Chỉ cần đặt tay ở ra sau bàn là bạn có thể rút giấy ra giống như rút giấy vệ sinh đó; có thể lôi hết ra ngoài, từng tờ một .... Tôi phá hết cái ngăn kéo chết tiệt kia, lấy mọi thứ ra và để nó sang một bên rồi đi lên tầng cao hơn và quay lại phòng họp. Cuộc họp vừa kết thúc và mọi người đều bắt đầu ra ngoài và tôi đi theo họ như thế này, bạn thấy đấy, đi cùng mọi người và chạy đến để bắt kịp với Teller và nói: “Ồ, nhân tiện, hãy để tôi xem ngăn bàn của ông nhé?" Ông ấy nói, “Được thôi.” Và rồi chúng tôi bước vào văn phòng của ông ấy và ông chỉ cho tôi chiếc bàn. Tôi nhìn và nói rằng nó trông khá tốt với tôi. Tôi nói "Hãy xem ông có gì trong đó nhé?" Ông nói: “Tôi rất vui được giới thiệu với anh,” và đưa chìa khóa vào và mở ngăn kéo, nói tiếp “nếu anh chưa thấy những tài liệu này.” Thật vô nghĩa khi chơi trò này với người quá thông minh như ông Teller, bởi vì thời gian từ lúc ông ấy thấy có điều gì đó không ổn cho đến khi hiểu chính xác những gì đã xảy ra là quá nhỏ khiến cho bạn không có nổi một khoảnh khắc mà vui mừng!

Chà, tôi còn nhiều chuyện vui khác về két sắt nhưng không phải ở Los Alamos. Bây giờ tôi muốn kể về những chuyện quan trọng khác. Nó liên quan đến an toàn của nhà máy Oak Ridge. Chế tạo bom thì ở Los Alamos nhưng việc tách các đồng vị uranium 238 và uranium 236, 235 thì làm ở Oak Ridge. Đồng vị sau là chất nổ, OK? Họ chỉ mới bắt đầu tách được một chút rất nhỏ từ một thí nghiệm của 235, vừa làm vừa thực hành. Đó là một nhà máy lớn và có rất nhiều thùng đựng đồ, hóa chất,... Họ sẽ tách chiết ra những phần tinh khiết hơn và tinh chế tiếp để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo. Cần phải tinh chế theo nhiều giai đoạn. Một mặt họ làm theo phương pháp hóa học và mặt khác thì chiết xuất từ thiết bị nhưng chỉ thu được một chút xíu. Và họ đang cố gắng xác định hàm lượng uranium 235 là bao nhiêu trong đó. Chúng tôi đã gửi hướng dẫn cho họ nhưng họ không hiểu đúng cách. Và thế là Segrè(4) quyết định phải đi đến tận nơi xem họ làm thế nào, tại sao xác định hàm lượng cứ sai như vậy. Bên Quân đội không đồng ý vì chính sách của họ là giữ tất cả thông tin của Los Alamos tại một nơi, người ở Oak Ridge không nên biết những gì họ làm ra sẽ dùng để làm gì, bất cứ chi tiết nào, chỉ tập trung vào làm thôi. Ý tôi là những người phụ trách ở đó có biết là họ đang phân tách uranium nhưng sẽ không biết quả bom mạnh đến mức nào, hay nguyên lý hoạt động như thế nào, bất cứ thứ gì liên quan. Và bên dưới thì càng không nên biết họ làm để làm gì. Quân đội muốn giữ thông tin tách biệt theo cách đó. Nhưng Segrè vẫn quả quyết là cần phải đến đó. Nếu không Oak Ridge sẽ không thể xác định hàm lượng chính xác được và mọi thứ sẽ tệ hơn nhiều. Và Segre đã đến tận nơi xem, ông ấy thấy họ lăn những bình đựng axit chứa nước xanh, là uranium nitrate. Ông nói, “Sau khi nước làm sạch các anh cũng lăn thế này sao? Đúng vậy không? ”Họ nói, “Đúng rồi, có sao không?” "Nó có nổ không?" người công nhân nói. "Trời ?! Nổ!??” bên Quân đội lầm bầm. "Anh Segre, chúng ta không nên để lộ bất kỳ thông tin nào!"

Có vẻ là phía Quân đội cũng biết một quả bom cần phải có bao nhiêu kg uranium, khoảng 20 kg. Họ cũng hiểu là nhà máy này sẽ không bao giờ tinh chế cùng lúc một khối lượng đó, tức là sẽ không có nguy cơ nổ. Nhưng họ không biết rằng nơtron sẽ tăng mạnh hoạt tính khi chuyển động chậm lại trong nước. Và trong nước thì chỉ cần khối lượng ít hơn nhiều, 1 phần 10, thậm chí 1 phần 100 là có thể tạo ra phản ứng phát phóng xạ. Nó không nổ nhưng tạo ra phóng xạ rất nguy hiểm, có thể giết mọi người xung quanh. Vì vậy tình hình rất nguy hiểm và mọi người đang lơ là với an toàn lao động.

Oppenheimer đánh điện cho Segre: Anh xem xét lại toàn bộ nhà máy, đánh giá nồng độ ở mọi địa điểm như quy trình thiết kế. Trong thời gian đó chúng tôi sẽ tính toán xem nồng độ tối đa có thể có và khả năng xảy ra nổ. Có hai nhóm bắt tay vào việc tính toán. Nhóm của Christie tính cho dung dịch nước và còn nhóm tôi làm cho phần vật liệu khô. Chúng tôi đã tính toán xong cho mọi vật liệu để Christie đi đến Oak Ridge báo cáo cho họ biết tình hình. Tôi vui vẻ đưa kết quả tính toán của nhóm cho Christie, và nói, “anh có đủ số liệu để đi rồi đó”. Nhưng rốt cuộc Christie lại bị viêm phổi và tôi phải đi thay. Tôi chưa bao giờ đi máy bay trước đó; Và giờ tôi lên máy bay với những số liệu bí mật thắt chặt trên lưng! Máy bay những ngày đó giống như đi xe buýt á. Nó dừng liên tục ở các chặng, trừ một số chặng xa hơn. Tôi ngồi chờ đón trả khách và có một anh chàng đứng cạnh vung móc khóa lên ca thán: “Đi máy bay mà không được ngồi ghế ưu tiên thì quá mệt mỏi.” Tôi không thể phản đối, tôi nói “Đúng thật, may mà tôi có ghế ưu tiên.” Nhưng rồi một lúc sau có vài vị tướng lên máy bay và đẩy mấy người xuống khoang hạng 3, tôi vẫn ở hạng 2. Có khi người hành khách đó nếu không phải dân biểu thì đã viết thư cho dân biểu của anh ta phản đối việc đẩy người dân qua lại những khoang ghế chết tiệt này ngay trong thời chiến?

Cuối cùng thì tôi cũng đến nơi. Việc đầu tiên tôi làm là nhờ họ dắt đi quan sát một vòng nhà máy. Tôi nhận ra nó còn tệ hơn những gì Segre đã báo cáo sau lần thăm đầu tiên. Ông mới thấy một số hộp xếp gần nhau thành một lô lớn, nhưng ông còn chưa thấy những hộp khác trong một cái phòng ngay sát. Và những thứ như vậy rất nhiều. Nếu bạn có quá nhiều vật liệu này gần nhau, bạn biết đấy, chúng tích lũy lại. Tôi đã đi xem qua toàn bộ nhà máy và mặc dù là trí nhớ của tôi rất kém nhưng khi tập trung ngắn hạn thì tôi có thể nhớ tất cả những thứ điên rồ như tòa nhà 9207, thùng số …, v.v.. Tối hôm đó tôi về nhà và tính toán lại toàn bộ những điểm nguy cơ lớn trong nhà máy cần phải xử lý ngay. Giải pháp khá đơn giản, hòa Cadium (Cd) trong dung dịch để hấp thụ nơtron trong nước, đặt các hộp xa nhau ra để tránh cho uranium quá nhiều gần nhau, … có những nguyên tắc nhất định. Tôi xử lý từng trường hợp, tạo ra các quá trình làm chậm. Nếu ta không hiểu cách hoạt động của nhà máy thì không thể đảm bảo an toàn cho nó. Và ngày hôm sau chúng tôi họp.

Ồ, tôi quên chưa nói trước khi đi Oppenheimer có dặn tôi, “Anh đến Oak Ridge và về mặt kỹ thuật có thể hỏi ông Julian Webb, ông So,... Tôi muốn anh đảm bảo rằng những người này có mặt tại cuộc họp, và hãy nói cho họ những gì quan trọng về an toàn hạt nhân mà anh biết. Phải đảm bảo là họ hiểu thực sự  vì họ là những người chịu trách nhiệm chính." Tôi nói, "Nếu họ không có mặt tại cuộc họp thì tôi phải làm gì?" Ông trả lời, "Vậy thì anh nói rằng Los Alamos sẽ không chịu trách nhiệm về sự an toàn của nhà máy Oak Ridge trừ khi !!!“ Ý ông là tôi, một Richard’s nhỏ tuổi, sẽ vào đó và nói thế? ” Ông nói "Đúng, Richard bé nhỏ, hãy đi và làm ngay." Tôi thực sự cảm thấy mình trưởng thành quá nhanh! Vì vậy khi tôi đến, chắc chắn là tôi phải đến đó, và tổ chức cuộc họp vào ngày hôm sau và tất cả những người này, những vị cấp cao nhất trong nhà máy, cả những chuyên gia kỹ thuật mà tôi cần cũng đều ở đó, và có cả các vị tướng, v.v. tất cả những ai quan tâm đến việc tổ chức lại công việc. Đó là một cuộc họp quan trọng về an toàn nhà máy, nếu không đảm bảo thì nhà máy sẽ không bao giờ hoạt động. Nó có thể sẽ nổ tung, tôi thề là nếu không ai quan tâm đến an toàn thì nó sẽ nổ tung. Và cũng  có một trung úy đi kèm tôi. Anh ấy nói với tôi rằng đại tá nói tôi không nên nói với họ về cách hoạt động của neuron và chi tiết của nó, họ muốn giữ mọi thứ tách biệt. Chỉ cần cho họ biết phải làm gì để giữ cho nhà máy an toàn. Tôi đã nói rằng theo ý kiến ​​của tôi, không thể chỉ cho họ hiểu và làm đúng các quy tắc nếu họ không hiểu bản chất, cách thức hoạt động của vật liệu. Vì vậy theo ý kiến ​​của tôi mọi thứ chỉ hoạt động nếu tôi nói với họ rằng “Los Alamos sẽ không chịu trách nhiệm về sự an toàn của nhà máy Oak Ridge trừ khi họ được hướng dẫn kỹ lưỡng về nguyên lý hoạt động!!” 

Được rồi, anh ta đi gặp đại tá. Ông đại tá nói “Hãy cho tôi năm phút,”. Ông ấy đến cửa sổ, dừng lại và suy nghĩ. Và đó là điều họ rất giỏi, rất giỏi trong việc đưa ra quyết định. Tôi nghĩ việc này rất đáng chú ý, cần phải quyết định xem có để thông tin về cách thức hoạt động của quả bom được nói trong nhà máy Oak Ridge không, và phải quyết định sau năm phút. Tôi rất ngưỡng mộ những người trong quân đội vì tôi không bao giờ có thể quyết định điều gì quan trọng khi bị giới hạn thời gian, dù là bất kỳ khoảng thời gian nào.

Và sau năm phút ông ấy nói, được rồi ông Feynman, hãy tiếp tục. Và sau đó tôi vào bàn và trình bày tất cả về neutron, cách chúng hoạt động, v.v…, hiện đang có quá nhiều neutron gần nhau, các anh phải tách vật liệu ra, để cadmium hấp thụ, và neutron chậm lại mạnh hơn neutron nhanh, và yak yak những thứ rất là cơ bản ở Los Alamos nhưng mà họ chưa bao giờ được nghe nói. Và tôi trở thành một thiên tài trong mắt họ, như chúa tể từ trên trời xuống! Ở đây họ chưa hiểu và chưa nghe về những hiện tượng này còn tôi thì biết rất rõ về nó. Tôi có thể cung cấp ra những ví dụ, số liệu, mọi thứ khác. Do vậy mà dù ở Los Alamos tôi chỉ là lính lác thì ở đầu bên này tôi lại là một thiên tài. Chà, kết quả là họ đã quyết định chia thành các nhóm nhỏ, tự tính toán lấy để hiểu cách hoạt động. Và họ bắt đầu thiết kế lại nhà máy. Các nhà thiết kế cũng đã ở đó, những người phụ trách xây dựng, các kỹ sư, kỹ sư hóa cho nhà máy mới sẽ xử lý các vật liệu khác nhau cũng ở đó. Và rồi những người khác ở lại còn tôi trở về. Họ bảo tôi hãy quay lại sau vài tháng nữa; họ sẽ thiết kế lại nhà máy cho việc tách chiết.

Tôi quay lại sau vài tháng, chắc hơn tháng thôi, và công ty Stone & Webster đã hoàn thành bản thiết kế nhà máy và tôi cần phải xem xét nhà máy trên bản thiết kế. OK? Làm sao nhìn vào một nhà máy chưa được xây dựng? Tôi không biết. Do đó tôi cần phải họp cùng với họ, có cả Trung úy Zumwalt luôn ở bên cạnh tôi, bạn biết đấy; Tôi được hộ tống ở khắp mọi nơi. Anh ấy đi với tôi và đưa tôi vào một căn phòng với hai kỹ sư này và một chiếc bàn thật dài, rất là dài, một chiếc bàn khổng lồ được bao phủ bởi một bản thiết kế lớn cũng to bằng cái bàn; không phải chỉ một bản thiết kế mà là một chồng. Khi còn đi học tôi cũng học vẽ kỹ thuật nhưng tôi không giỏi lắm trong việc đọc các bản thiết kế. Và họ bắt đầu giải thích những thứ đó cho tôi vì họ nghĩ rằng tôi là một thiên tài. Và họ bắt đầu, “Mr. Feynman, chúng tôi muốn anh hiểu nhà máy được thiết kế như thế này, anh thấy một trong những điều chúng ta phải làm là tránh tích tụ. " Có những vấn đề như - nếu có một thiết bị bay hơi đang hoạt động và nếu van bị kẹt hoặc thứ gì đó tương tự, chúng sẽ tích tụ lại quá nhiều và sẽ phát nổ. Vì vậy họ giải thích rằng nhà máy này được thiết kế để không có một van duy nhất - nếu bất kỳ một van nào bị kẹt sẽ không có gì xảy ra. Tức là cần ít nhất hai van ở mọi nơi. Họ tiếp tục giải thích nó hoạt động như thế nào. Cacbon tetraclorua đi vào đây, uranium nitrat từ đây đi vào đây, nó đi lên và đi xuống, đi lên qua sàn, đi lên qua các đường ống, đi lên từ tầng hai, bla bla. Họ chỉ xuống, lên , xuống, lên trong bản thiết kế, nói rất nhanh để giải thích về một nhà máy hóa chất rất là phức tạp. Tôi bị choáng hoàn toàn, tệ hơn nữa tôi không biết các ký hiệu trên bản thiết kế có ý nghĩa gì! Có một số thứ mà thoạt đầu tôi nghĩ đó là một cửa sổ. Đó là một hình vuông với một cây thánh giá nhỏ ở giữa, có ở khắp nơi. Đường kẻ với hình vuông chết tiệt này, đường kẻ với hình vuông chết tiệt. Tôi nghĩ đó là một cửa sổ mà không, nó không thể là một cửa sổ vì nó không phải lúc nào cũng ở rìa. Tôi muốn hỏi nó là gì. Chắc hẳn bạn đã ở trong tình huống như thế này - bạn không hỏi  ngay lập tức và nghĩ mọi chuyện sẽ ổn thôi. Nhưng rồi họ nói quá lâu và bạn cũng lưỡng lự quá lâu. Và nếu bạn hỏi thì họ sẽ nói anh đang lãng phí thời gian của tôi từ nãy đến giờ để làm gì? Tôi không biết phải làm gì cả; Tôi tự nghĩ, cuộc đời mình hay gặp may mắn. Có thể bạn sẽ không tin chuyện này nhưng tôi thề rằng đó hoàn toàn là sự thật. Tôi đã có một may mắn đến giật gân. Khi tôi nghĩ tôi cần phải làm gì, tôi cần phải làm gì thì tôi nảy ra một ý tưởng. Đó có phải là một cái van không? Tôi không biết đó có phải là van hay không. Thế là tôi chỉ ngón tay vào nó, ở giữa một bản thiết kế, trang số 3 cuối cùng và hỏi "Nếu van này bị kẹt thì điều gì sẽ xảy ra?" Tôi đã hình dung rằng họ sẽ nói "Đó không phải là một cái van, đó là một cửa sổ thưa anh.” Nhưng rồi một trong số họ nhìn người kia và nói, "Chà, nếu cái van đó bị kẹt, hmm" và họ chỉ lên chỉ xuống trên bản thiết kế, lên và xuống, người kia chỉ lên và xuống, qua lại, tới lui, cả hai nhìn nhau và quay lại tôi và nói - "Đúng là có vấn đề, thưa ông." Và rồi họ cuộn các bản thiết kế và đi ra ngoài, chúng tôi cũng bước ra.. Trung úy Zumwalt, người đã theo sát tôi suốt cuộc họp nói, “Anh đúng là một thiên tài. Lần trước tôi nghĩ anh là một thiên tài khi anh đi qua nhà máy một lần mà có thể nói với họ về thiết bị bay hơi C-21 trong tòa nhà 90-207 vào sáng hôm sau", anh ta nói," nhưng lần này thì còn tuyệt vời hơn. Tôi muốn biết làm thế nào mà anh làm được như vậy? ” Tôi đã nói với anh ấy, anh hãy thử tìm cách kiểm tra xem đó có phải là van hay không.

Chà, còn một loại vấn đề khác mà tôi đã phải giải quyết. Chúng tôi phải thực hiện rất nhiều phép tính trên máy tính Marchant. Nhân tiện tôi kể cho bạn biết Los Alamos là như thế nào. Chúng tôi có những chiếc máy tính Marchant, tôi không biết bạn có biết chúng trông như thế nào không, máy tính cầm tay với các con số và bạn đẩy chúng, và chúng nhân, chia, cộng, v.v. Chứ không giống như những thứ dễ dàng bây giờ. Cái khó là chúng là những thiết bị cơ khí và cần phải gửi trở lại nhà máy để sửa chữa. Chúng tôi không có chuyên gia để làm việc đó, đó là quy định và vì vậy chúng sẽ luôn được gửi đến nhà máy để sửa. Và rồi chúng tôi nhanh chóng bị hết máy. Thế là tôi và một số đồng nghiệp khác bèn tháo hộp ra. Chúng tôi không được phép làm thế - quy tắc ghi rõ là “Nếu hộp bị tháo, chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm. .. ” Nhưng rồi chúng tôi cũng mở hộp ra và học được một loạt bài học tốt đẹp. Giống như ngay khi tháo nắp ra sẽ có một cái trục có một lỗ ở phía sau và một lò xo được giữ theo chiều này, và lò xo rõ ràng nằm trong lỗ, quá dễ. Như thế chúng tôi học được rất nhiều thứ, sửa được máy, ngày một giỏi hơn và tự sửa được nhiều hơn, ơn Chúa. Nếu có gì đó quá phức tạp chúng tôi mới gửi lại nhà máy còn tự sửa những hỏng hóc đơn giản để giữ cho công việc được tiếp tục. Tôi cũng đã sửa một số máy đánh chữ vì đã sửa xong các máy tính. Nhưng có một anh chàng ở xưởng máy giỏi hơn tôi và sẽ phụ trách máy đánh chữ; Tôi phụ trách máy cộng. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy ngay vấn đề quan trọng là tính chính xác điều gì sẽ xảy ra trong vụ nổ khi bạn đẩy vật liệu vào bằng một vụ nổ khác và sau đó nó lại đi ra. Chính xác điều gì sẽ xảy ra, tính chính xác lượng năng lượng sẽ được giải phóng, v.v. Những bài toán đó yêu cầu nhiều công suất tính toán nhiều hơn những gì chúng tôi đang có. Và một anh chàng rất thông minh tên Stanley Frankle nhận ra rằng có thể sử dụng những chiếc máy IBM. Công ty IBM làm máy cho việc kinh doanh, cũng là máy cộng nhưng được gọi là máy lập bảng. Nó dùng để liệt kê các tổng. Và có một máy nhân nữa, đó là một chiếc hộp lớn. Bạn đặt các thẻ vào và nó sẽ lấy hai số từ thẻ rồi nhân lên và in ra một thẻ khác. Rồi còn có những máy tổng hợp và máy phân loại, ... Anh ta quyết định xong và hình thành một ý tưởng về một chương trình rất hay. Chúng tôi sẽ mang các máy này vào trong một phòng, rồi lấy những chiếc thẻ đưa vào chúng theo một vòng tròn. Ai làm về tính toán số sẽ hiểu tôi đang nói gì. Nhưng điều đó chính là một cái rất mới: tính toán dây chuyền.

Thông thường bạn sẽ phải tự làm mọi mọi thứ để tính toán. Nhưng với những chiếc máy cộng này thì khác. Đầu tiên bạn sẽ tính với máy cộng, rồi đến máy nhân, rồi lại máy cộng, tiếp tục như vậy. Anh ta thiết kế như vậy và đặt hàng từ IBM. Chúng tôi nhận thấy đây là một cách tốt để giải quyết vấn đề. Và chúng tôi còn tìm được một người bên quân đội đã được IBM huấn luyện. Chúng tôi cần người sửa máy, bảo dưỡng máy và những thứ liên quan. Họ hứa là sẽ cử anh này tới nhưng cứ trì hoãn mãi. Chúng tôi thì luôn phải khẩn trương. Tôi nói rõ hơn - mọi thứ chúng tôi làm, mọi thứ, cần phải làm nhanh nhất có thể. Trong tình cảnh đặc biệt này chúng tôi đã phải tìm cách làm mọi bước tính toán số cần làm, những thứ mà lẽ ra máy sẽ làm như nhân, cộng, … Chúng tôi đã phát triển chương trình nhưng không có máy để thử nghiệm. Và thế là tôi đã thu xếp cách này, mời những cô gái với chiếc máy Marchant vào trong một phòng. Mỗi người sẽ làm một phép tính, cô thì phép nhân, cô thì phép cộng, phép lập phương,... Chúng tôi dùng những thẻ chỉ số. Các cô gái chỉ cần cầm lấy thẻ, đọc số đó và lấy lập phương của nó, ví dụ thế, rồi ghi ra thẻ và đưa cho người tiếp theo. Các phép tính cộng, nhân cứ nối tiếp thành một vòng tròn. Chúng tôi cũng đã loại bỏ tất cả các lỗi. Chà, chúng tôi đã làm theo cách đó. 

Nhưng vấn đề là tốc độ mà chúng tôi có thể tính toán được - chúng tôi chưa bao giờ thực hiện tính toán dây chuyền và mọi người đều đã thực hiện tất cả các bước. Nhưng Ford đã có một ý tưởng hay, nó giúp mọi thứ nhanh hơn rất nhiều và chúng tôi đã đạt được tốc độ tương đương với tốc độ dự đoán cho máy IBM. Điểm khác biệt duy nhất là máy IBM không biết mệt và có thể làm việc ba ca còn các cô gái thì chỉ làm một thời gian là mệt mỏi. Nhưng dù sao đi nữa cách này cũng chúng tôi tìm được lỗi trong quá trình tính toán và cuối cùng thì máy móc cũng đã đến. Nhưng vẫn còn thiếu kỹ thuật viên. Vì thế chúng tôi tự bắt tay vào để lắp chúng lại với nhau. Đó là một trong những cỗ máy phức tạp nhất của công nghệ ngày đó, những cỗ máy tính toán to lớn tháo rời từng phần với rất nhiều dây nối và bản hướng dẫn đi kèm. Chúng tôi bắt tay vào ráp chúng lại, có Stan Frankie, tôi và một đồng nghiệp khác. Vấn đề lớn nhất là chúng tôi gặp là những dấu cảnh báo bạn sẽ phá hủy cái này, phá hủy cái kia. Và rồi chúng tôi cũng ráp được, đôi khi chúng hoạt động, đôi khi chúng tôi ghép sai chúng không hoạt động. Chúng tôi lại tìm hiểu và cuối cùng cũng xong. 

Nhưng vẫn còn một vấn đề, tôi còn đang loay hoay với một máy nhân. Tôi thấy một phần bị cong ở bên trong, tôi sợ nếu bẻ thẳng lại nó sẽ không chạy. Luôn có những chỉ dẫn nếu bạn đụng vào sẽ bị hỏng và không thể phục hồi được. Cuối cùng thì kỹ thuật viên IBM đã đến theo đúng lịch trình nhưng anh ta đến và sửa phần còn lại mà chúng tôi chưa ráp tới. Và chúng tôi bắt đầu cho chạy chương trình. Nhưng vẫn có lỗi ở chính bộ phận mà tôi gặp phải ở trên. Và anh ta mất tới 3 ngày tìm cách sửa. Cho đến khi tôi ngó vào và nói, “Ồ, tôi thấy chỗ kia bị cong kìa. “ Anh ta nói “Ồ đúng rồi, chính là chỗ này!”. Và cỗ máy chạy luôn.

Frankie cho chạy chương trình này nhưng chúng tôi gặp ngay một “căn bệnh”, căn bệnh máy tính mà bất kỳ ai làm việc với máy tính đều hiểu. Đó là một căn bệnh rất nghiêm trọng ảnh hưởng đến toàn bộ chương trình. Chúng tôi đang tìm cách giải một vấn đề quan trọng. Và căn bệnh này đến từ việc bạn tương tác với máy tính. Máy tính rất là thú vị. Bạn có những bộ chuyển x thế này, nếu đó là một số lẻ nó sẽ làm điều này. Và cứ thế bạn có thể xây dựng những thứ rất phức tạp trên cùng một chiếc máy nếu bạn đủ thông minh. Nhưng rồi sau một thời gian toàn bộ hệ thống đã sụp đổ. Anh ấy đã không cẩn thận, không giám sát mọi thứ. Hệ thống hoạt động rất, rất chậm. Bài toán thực sự cần giải là tạo ra một chiếc bản tính có thể tính và tự động in ra arc-tang của x. Chương trình sẽ chạy và in ra các cột, chạy tiếp và tính arc-tang rồi tích phân và hoàn thành cả một bảng trong một lần chạy. Điều này hoàn toàn vô dụng vì chúng tôi đã có bảng arg-tang in sẵn rồi. Nhưng nếu bạn đã từng làm việc với máy tính bạn sẽ hiểu căn bệnh như vậy. Đó là niềm vui thích nhìn thấy (máy móc) có thể làm được những gì. Đó là lần đầu tiên anh ta mắc bệnh, anh chàng tội nghiệp vừa phát minh ra cỗ máy đã mắc bệnh.

Và vì thế tôi được lệnh ngừng công việc đang làm trong nhóm của mình để xuống tiếp quản nhóm IBM. Tôi nhận thấy căn bệnh này và tôi sẽ cố gắng tránh nó. Và mặc dù họ đã mất chín tháng đề làm ba bài toán thì đây vẫn là một nhóm rất tốt. Vấn đề đầu tiên là họ chưa bao giờ chỉ dẫn cho những người này - những người họ đã chọn từ tất cả các nơi trên toàn quốc gom lại thành một thứ gọi là Biệt đội Kỹ sư Đặc biệt. Có những cậu bé thông minh từ trường trung học  có khả năng kỹ thuật, và Quân đội đã tập hợp họ cùng nhau trong Biệt đội Kỹ sư đặc biệt. Họ được gửi đến với Los Alamos ở trong doanh trại nhưng không được cho biết bất cứ điều gì. Sau đó họ bắt đầu làm việc trên máy tính IBM. Đó là việc đục lỗ, tạo những con số mà họ không hiểu, không ai nói cho họ biết đó là gì. Mọi việc diễn ra rất chậm. Tôi đã nói rằng điều đầu tiên phải làm là các nhân viên kỹ thuật biết chúng ta đang làm gì. Oppenheimer đã đến nói chuyện với những người phụ trách an ninh và được đồng ý. Vì vậy tôi đã giảng lại cho họ, nói với họ chúng ta đang làm gì, và tất cả họ đều rất hào hứng. Chúng tôi đang chiến đấu trong thời chiến. Giờ họ đã biết công việc của mình là gì. Họ biết những con số có ý nghĩa như thế nào. Họ hiểu nếu áp suất phát ra cao hơn thì sẽ có nhiều năng lượng được giải phóng hơn và những thứ tương tự. Họ biết những gì họ đang làm. Đã có một sự chuyển đổi sâu sắc: họ bắt đầu cải tiến công việc, làm việc vào ban đêm. Họ không cần giám sát trong đêm, không cần bất cứ thứ gì. Họ đã hiểu công việc, đã phát minh ra một số chương trình mà chúng tôi sử dụng, v.v… Các chàng trai của tôi thực sự đã tiến bộ, và tất cả những gì cần làm chỉ đơn giản là nói cho họ biết đó là gì, có ý nghĩa gì, chỉ có vậy. Chứ đừng, làm ơn, đừng nói là họ cần phải đục lỗ. Kết quả là, trước đây họ đã mất chín tháng để giải quyết ba bài toán thì bây giờ chúng tôi thực hiện chín bài toán trong ba tháng, tốc độ nhanh gấp gần mười lần. Nhưng một trong những cách bí mật mà chúng tôi đã áp dụng cho vấn đề của mình đó là: Bài toán bao gồm một loạt các thẻ phải chạy qua một chu trình khép kín. Đầu tiên cộng, sau đó nhân lên, và cứ thế nó đi qua một vòng các máy móc trong căn phòng này, cứ thế một cách chậm rãi. Vì vậy chúng tôi đã tìm ra cách: lấy một bộ thẻ có màu khác xếp chúng trong chu trình nhưng nhưng lệch pha nhau. Và thế là chúng tôi có thể giải hai hoặc ba bài toán cùng một lúc. Bạn thấy đấy chính là một giải pháp. Bài toán này có thể đang được cộng cùng lúc bài toán kia lại đang nhân. Chỉ cần biết cách quản lý như vậy chúng tôi giải được nhiều bài toán hơn.

Đến khi gần kết thúc cuộc chiến chúng tôi phải thực hiện vụ thử ở Alamogordo. Câu hỏi đặt ra là sẽ có bao nhiêu năng lượng được giải phóng? Chúng tôi đã tính toán cho nhiều thiết kế khác nhau nhưng thiết kế cuối cùng được sử dụng thì chúng tôi lại chưa tính toán. Bob Christie đến và nói rằng, chúng tôi muốn có kết quả trong một tháng hoặc rất ngắn, ít hơn thế, có thể là ba tuần. Tôi nói, "Không thể." Ông ấy nói, “Tôi thấy anh đang làm quá nhiều bài toán trong một tuần. Chỉ mất hai tuần cho mỗi bài toán, hoặc ba tuần cho mỗi bài toán ”. Tôi nói, “Tôi biết, cần nhiều thời gian để giải quyết nhưng chúng tôi đang thực hiện song song. Nó sẽ mất nhiều thời gian và không có cách nào để làm cho nó chạy  nhanh hơn." Ông ấy đi ra ngoài. Tôi bắt đầu nghĩ - có cách nào cho nó chạy nhanh hơn không. Nếu chúng tôi không cho chạy cái gì khác trên máy thì nó sẽ không bị phân tán, không có gì khác can thiệp, vân vân và vân vân. Tôi nghĩ và viết thách thức đó lên bảng CÓ LÀM ĐƯỢC KHÔNG? cho các chàng trai thấy. Tất cả đều trả lời, có. Chúng tôi sẽ làm việc hai ca, chúng tôi sẽ làm thêm giờ, tất cả những điều này, chúng tôi sẽ thử. Chúng tôi sẽ thử nó !! Và quy tắc là không làm bất cứ thứ gì khác, chỉ tập trung duy nhất vào bài toán này. Và mọi người bắt đầu làm việc. 

Vợ tôi mất ở Albuquerque và tôi phải đi. Tôi mượn xe của Fuchs; anh ấy là bạn trong ký túc xá và có một chiếc ô tô. Anh ta cũng dùng ô tô để chuyển những bí mật đi, bạn biết đấy, họ đã đi xuống Santa Fe. Anh ta là gián điệp; Tôi không biết điều đó. Tôi mượn xe của anh ấy để đi Albuquerque. Cái xe chết tiệt đó bị xẹp đến 3 lốp trên đường đi. Tôi quay về và vào phòng làm việc, lẽ ra tôi phải giám sát mọi thứ nhưng tôi đã không thể làm điều đó trong ba ngày. Đó là một mớ hỗn độn, rất gấp rút để tìm ra câu trả lời cho vụ thử sẽ được thực hiện trong sa mạc. Tôi vào phòng và có ba thẻ màu khác nhau - trắng, xanh, vàng và tôi bắt đầu nói, "Này chúng ta sẽ không làm nhiều hơn một bài toán - chỉ một bài toán duy nhất!" Họ nói, “Khoan, khoan khoan.. Chờ đã, chúng tôi sẽ giải thích mọi thứ. ” Tôi chờ và câu chuyện là thế này. Khi máy chạy, thỉnh thoảng máy mắc lỗi hoặc họ nhập sai số; điều đó vẫn xảy ra. Nó khiến chúng tôi phải quay lại và làm lại từ đầu. Nhưng họ nhận thấy điều này, tập hợp các thẻ ghi lại vị trí và độ sâu trong cỗ máy, trong không gian hay thứ gì đó. Nếu có lỗi ở đây thì sau một chu kỳ chỉ ảnh hưởng đến các số lân cận, sang chu kỳ tiếp theo ảnh hưởng đến các số lân cận khác, v.v. Nó hoạt động theo cách của nó thông qua gói thẻ. Nếu bạn có năm mươi thẻ và bạn làm sai ở thẻ số 39, nó ảnh hưởng đến 37, 38 và 39. Các thẻ tiếp theo 36, 37, 38, 39 và 40. Và cứ thế nó sẽ lây lan như một dịch bệnh. Vì vậy họ đã tìm ra lỗi và họ có một ý tưởng. Họ sẽ chỉ tính toán với một chồng thẻ nhỏ gồm mười thẻ, xung quanh cái bị lỗi. Và bởi vì 10 thẻ có thể được đưa qua máy nhanh hơn bộ thẻ năm mươi lá nên họ sẽ dùng cách này. Còn với bộ thẻ năm mươi lỗi sẽ tiếp tục lan truyền. Mặt khác thì máy sẽ tính toán nhanh hơn và họ sẽ giám sát dễ hơn và sửa chữa khi cần.

Rất thông minh. Họ đã làm việc như thế đó, thực sự chăm chỉ, rất thông minh, để đạt được tốc độ. Không có cách nào khác. Nếu họ dừng lại để sửa lỗi chúng tôi sẽ mất thời gian và không thể hoàn thành. Họ đã làm việc như thế. Tất nhiên bạn biết điều gì có thể xảy ra trong khi họ làm. Có một lỗi trong bộ thẻ màu xanh. Và do vậy họ dùng một bộ thẻ màu vàng ít hơn một chút; nó chạy nhanh hơn bộ màu xanh, bạn biết đấy. Có những lúc khiến họ đang phát điên lên, bởi vì sau khi trải hết ra họ nhận ra phải sửa thẻ trắng. Và họ phải lấy các thẻ khác ra và thay thế bằng thẻ phù hợp, tiếp tục một cách chính xác. Điều đó khá khó hiểu - bạn biết đấy những điều đó luôn xảy ra. Bạn không muốn mắc sai lầm. Và khi cả ba bộ thẻ này bắt đầu chạy và họ sẽ niêm phong mọi thứ thì SẾP đến. “Hãy để yên đó. Và tôi để họ làm và mọi thứ hoàn thành. Chúng tôi đã giải xong bài toán đúng thời hạn.

Tôi muốn kể thêm vài điều về một số người mà tôi đã gặp. Lúc đầu tôi là cấp thấp nhất, rồi tôi thành trưởng nhóm và đã gặp rất nhiều nhân vật vĩ đại, ngoài những người trong ủy ban đánh giá ban đầu ở Los Alamos. Có những nhà vật lý vĩ đại mà cả đời tôi mới có cơ hội được gặp ở đó. Những người mà tôi đã từng nghe nói đến, nhiều cấp bậc, nói chung những người vĩ đại nhất đều ở đó. Tất nhiên là có Fermi(5).  Ông ấy đến một lần. Lần đầu tiên ông ấy đến là từ Chicago để tư vấn cho chúng tôi, giúp đỡ nếu chúng tôi gặp phải vấn đề gì không. Chúng tôi đã có một cuộc họp và tôi đã thực hiện một số tính toán và nhận được một số kết quả. Các tính toán rất phức tạp và khó. Bây giờ khi tôi đã là chuyên gia trong việc này thì tôi luôn có thể nói trước câu trả lời sẽ có dạng như thế nào hoặc có thể lý giải được một câu trả lời mà tôi nhận được. Nhưng khi đó bài toán rất phức tạp đến nỗi tôi không thể giải thích tại sao nó lại như vậy. Tôi nói với Fermi rằng tôi đang tính toán thế này - ông nói “hãy khoan nói với tôi kết quả, để tôi nghĩ một chút…”.  “Nó sẽ ra như thế này (ông ấy đúng), và ra như vậy là vì thế này. Ông ấy đã giải thích một cách rõ ràng và hoàn hảo. Tức là ông ấy đã làm rất tốt điều mà lẽ ra tôi phải làm tốt, tốt hơn mười lần. Đó là một bài học cho tôi.

Tiếp theo là Von Neumann, nhà toán học vĩ đại. Ông ấy đã đề xuất một số ý tưởng rất thông minh, tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết. Chúng tôi có một số hiện tượng rất thú vị khi tính toán với các con số. Nhưng kết quả có vẻ như không ổn định và ông ấy đã giải thích tại sao và vân vân. Đó là lời khuyên kỹ thuật rất tốt. Chúng tôi thường đi dạo để nghỉ ngơi, chẳng hạn như vào Chủ nhật hay gì đó. Chúng tôi đi bộ trong các hẻm núi gần đó và chúng tôi thường đi với Bethe, Von Neumann và Bacher. Đó là một đặc ân lớn. Một điều mà Von Neumann kể cho tôi là một ý tưởng thú vị của ông - rằng bạn không cần phải chịu trọng trách gì cho thế giới mà bạn đang sống. Nhờ đó mà tôi đã phát triển tư tưởng bàng quan xã hội trong quan niệm mình, từ lời khuyên của Von Neumann. Nó khiến tôi hạnh phúc hơn kể từ đó. Chính Von Neumann là người đã gieo mầm mống cho sự vô trách nhiệm tích cực của tôi!

Tôi cũng gặp Bohr(6).  Rất thú vị. Ông ấy đến, khi đó tên của ông là Nicholas Baker và đến cùng con trai Jim Baker, tên thực sự là Aage(7). Họ đến thăm chúng tôi từ Đan Mạch, họ là những nhà vật lý rất nổi tiếng như các bạn đã biết. Những người tầm cỡ khác đều coi ông ấy như ông tổ vĩ đại, lắng nghe ông thuyết giảng. Và ông ấy trình bày trong một buổi họp và mọi người đều háo hức muốn được thấy Bohr vĩ đại. Có rất nhiều người tham dự và tôi đứng trong góc nào đó, chúng tôi thảo luận về các vấn đề xung quanh quả bom. Đó là lần đầu tiên. Ông ấy đến và trở đi và tôi chỉ có thể nhìn thấy ông qua đầu của mọi người vì tôi đứng ở góc phòng mà. Lần tiếp theo ông ấy đến, thì vào buổi sáng ngày hôm đó tôi nhận được một cuộc điện thoại. "Xin chào, Feynman?" “Tôi nghe.” “Đây là Jim Baker ”; con trai ông. “Cha tôi và tôi muốn nói chuyện với ông” "Tôi sao? Tôi là Feynman, tôi chỉ là một. . . ” "Đúng rồi. ĐƯỢC CHỨ." Vì vậy tôi đến nơi vào tám giờ sáng trước khi mọi người thức dậy. Chúng tôi đi vào văn phòng trong khu vực kỹ thuật và anh ấy nói, "Chúng tôi suy nghĩ cách để có thể làm cho quả bom hiệu quả hơn và chúng tôi có ý tưởng sau …" Tôi nói, "Không, nó sẽ không hiệu quả, nó không hiệu quả, blah, blah, blah." Anh ta nói tiếp, "Còn làm thế này thì sao?" Tôi nói "Có vẻ tốt hơn một chút nhưng còn cái chết tiệt kia trong cách này” Cứ thế trao đổi qua lại. Tôi rất dở về một điều là tôi không quan tâm tôi đang nói chuyện với ai. Nếu đã nói về vật lý thì chỉ là vật lý; nếu ý tưởng tệ thì tôi nói rằng nó tệ. Nếu nó tốt thì tôi nói nó tốt. Mọi thứ rất đơn giản và tôi luôn sống theo cách đó. Rất tốt, thoải mái nếu bạn có thể làm như vậy. Tôi may mắn, may mắn đến như lúc tôi chỉ vào bản thiết kế, tôi may mắn trong cuộc đời mình vì tôi làm được điều đó. Chúng tôi tranh luận trong khoảng hai giờ đồng hồ lật đi lật lại rất nhiều ý tưởng. Niels vĩ đại châm lại điếu tẩu của mình, liên tục khi nó vừa hết. Và ông ấy nói theo cách rất khó hiểu được. Ông nói lầm bầm khó hiểu, nhưng con trai ông hiểu được. Cuối cùng ông nói, “Giờ thì chúng ta có thể gọi mọi người tới rồi.”, trong lúc châm điếu tẩu khác. Họ gọi tất cả những người khác tới và thảo luận. Và sau đó con trai ông có nói với tôi điều gì đã xảy ra - ở lần trước ông ta đến, ông nói với con trai mình - “Hãy nhớ tên của cậu đứng ở đằng này. Anh ta là người duy nhất không sợ tôi và dám nói tôi có một ý tưởng điên rồ. Và lần tới khi chúng ta muốn thảo luận về các ý tưởng chúng ta sẽ không làm điều đó với những người chỉ luôn biết nói vâng, đúng, đúng. Tiến sĩ Bohr, hãy tìm cậu ta trước, chúng ta sẽ nói chuyện với anh ta trước tiên."

Dĩ nhiên sau đó là đến vụ thử bom sau khi chúng tôi đã thực hiện các tính toán. Chúng tôi phải cho nổ thử. Tôi đang có một kỳ nghỉ ngắn vào thời điểm đó, tôi đoán là vì vợ tôi đã mất. Và tôi nhận được một tin nhắn từ Los Alamos, "Em bé sẽ được sinh ra, dự kiến ​​là vào ngày …." Thế là tôi bay trở lại, tôi đến trại vào đúng lúc những xe buýt vừa đi ra, tôi còn thậm chí không thể vào phòng mình. Tại Alamogordo, chúng tôi đứng cách xa khoảng 20 dặm. Chúng tôi được nghe một radio và họ sẽ nói khi nào mọi thứ sẽ diễn ra. Nhưng đài radio lại không hoạt động và chúng tôi không biết điều gì đang xảy ra. Nhưng chỉ một vài phút trước khi nó được cho là bắt đầu thì radio hoạt động trở lại và họ nói rằng còn 20 giây gì đó. Đối với mọi người ở cách xa giống như chúng tôi họ đưa cho kính đen để bạn có thể xem nó. Kính râm (có những người khác ở gần hơn, cách xa sáu dặm)!! Cách thứ chết tiệt này 20 dặm với kính đen bạn sẽ không thể nhìn thấy gì. Sau đó tôi luận ra rằng chỉ có thể là tia cực tím mới gây hại cho mắt chứ ánh sáng trắng chói không bao giờ có thể làm hại mắt bạn. Thế là tôi đứng sau kính chắn gió của một chiếc xe tải và vậy tia cực tím sẽ không thể đi qua kính này. Như vậy sẽ an toàn và tôi có thể nhìn thấy vụ thử. Những người khác sẽ không thể nhìn thấy nó được. OK. Thời gian đến và một tia chớp khổng lồ vụt sáng ngoài kia, sáng đến mức tôi nhanh chóng nhìn thấy vết loang màu tím trên sàn xe tải. Tôi nói, “Không phải vậy. Đó là hình ảnh sau." Và tôi quay trở lại và tôi thấy ánh sáng trắng này chuyển thành màu vàng và sau đó thành màu cam. Các đám mây hình thành và sau đó chúng lại biến mất, sự nén và giãn nở hình thành và làm cho các đám mây biến mất. Rồi cuối cùng, một quả cầu lớn màu cam, phần giữa rất sáng, trở thành một quả bóng màu cam bắt đầu nổi lên và cuồn cuộn một chút. Ngoài viền có một chút màu đen và sau đó bạn thấy một quả cầu khói lớn với các tia chớp ở bên cháy và bắn ra ngoài, là nhiệt. Tôi đã thấy tất cả những điều đó, tất cả những điều này mà tôi vừa mô tả, chỉ trong chốc lát khoảng chừng một phút. Đó là một chuỗi từ sáng tới tối và tôi đã thấy nó. Có lẽ tôi là người duy nhất thực sự nhìn bằng mắt vào vụ nổ, vụ thử Trinity đầu tiên. Những người khác đều đeo kính đen. Những người ở sáu dặm không thể nhìn thấy nó vì tất cả họ đều phải nằm trên sàn và che mắt lại. Những người ở chỗ tôi thì phải đeo kính đen nên tôi là người duy nhất nhìn thấy nó bằng mắt trần. Và cuối cùng, sau khoảng một phút rưỡi, đột nhiên có một tiếng động lớn, BANG, rầm rầm như sấm, và điều đó đã thuyết phục tôi. Không ai nói lời nào trong suốt cả phút này, tất cả chúng tôi chỉ lặng lẽ quan sát, nhưng âm thanh này đã giải thoát mọi người. Bởi vì âm thanh đặc này ở khoảng cách này có nghĩa là quả bom đã thực sự nổ. Người đàn ông đứng cạnh tôi hỏi khi âm thanh đó vừa tắt, "Cái gì vậy?" Tôi nói, "Đó là quả bom." Đó là William Laurence của tờ New York Times. Anh ta sẽ viết một bài báo mô tả toàn bộ tình huống. Tôi là một trong những người được giao việc đã anh ta đi thăm khắp nơi. Có những thứ quá kỹ thuật đối với anh ta.

Sau đó ông Smyth từ Princeton đến và tôi đã đưa ông ấy đi vòng quanh Los Alamos. Chúng tôi đi vào một căn phòng và ở phía cuối của một cái bệ, hẹp hơn một chút, là một quả bóng nhỏ, được mạ bạc - bạn có thể đặt tay lên đó, nó rất ấm. Nó có tính phóng xạ; đó là plutonium. Và chúng tôi đứng ở cửa phòng này nói chuyện về nó. Có một nguyên tố mới được tạo ra bởi con người, chưa từng xuất hiện trên trái đất trước đây, ngoại trừ có thể trong một thời kỳ rất ngắn được tạo ra từ buổi đầu. Và ở đây tất cả đều bị cô lập và có bức xạ, và có những đặc tính này. Chúng tôi đã tạo ra chúng. Và vì vậy nó rất, rất có giá trị, không có gì giá trị hơn,... Trong khi đó, bạn biết mọi người làm như thế nào khi bạn nói chuyện không, người ta thường lắc lư xung quanh, ... Anh ấy đang đá vào cái chặn cửa, bạn thấy đấy, và tôi nói rằng chặn cửa thích hợp hơn cánh cửa. Chặn cửa là một hình bán cầu, kim loại màu vàng, thực tế là vàng. Đó là một bán cầu vàng rất lớn. Nguyên nhân là do chúng tôi cần thực hiện một thí nghiệm để xem có bao nhiêu nơtron bị phản xạ bởi các vật liệu khác nhau để tiết kiệm nơtron, vì vậy chúng tôi không sử dụng nhiều plutonium. Chúng tôi đã thử nghiệm nhiều vật liệu khác nhau. Chúng tôi đã thử nghiệm bạch kim, thử nghiệm kẽm, chúng tôi đã thử nghiệm đồng thau, và vàng. Và khi thử nghiệm với vàng, chúng tôi đã có những mảnh vàng này và ai đó đã có ý tưởng thông minh sử dụng quả cầu vàng tuyệt vời đó làm tấm chắn cửa cho cánh cửa có chứa plutonium, điều này khá phù hợp.

Sau khi sự việc diễn ra và chúng tôi nghe kể về nó, đã có một sự phấn khích tột độ tại Los Alamos. Mọi người tổ chức tiệc tùng, chúng tôi chạy nhảy. Tôi ngồi sau một chiếc xe jeep và đánh trống, vân vân. Ngoại trừ một người mà tôi nhớ, là Bob Wilson, người đã đưa tôi vào cuộc ngay từ đầu. Anh ấy là ngồi đó lau. Tôi hỏi, "Anh đang lau cái gì vậy?" Anh ấy nói, "Chúng ta đã làm ra một điều khủng khiếp." Tôi nói, "Nhưng anh đã bắt đầu nó, và gọi chúng tôi vào." Bạn thấy đấy, những gì đã xảy ra với tôi, với chúng tôi là chúng tôi bắt đầu với một lý do tốt đẹp, rồi chúng tôi đang làm việc rất chăm chỉ để làm điều gì đó, hoàn thành nó, đó là một niềm vui, đó là sự phấn khích. Và rồi bạn dừng lại suy nghĩ, bạn biết đấy, bạn chỉ dừng lại. Sau khi bạn bắt đầu suy nghĩ, bạn dừng lại đôi chút. Và anh ta là người duy nhất vẫn còn suy nghĩ về nó vào cái thời khắc đặc biệt này. Tôi quay trở lại cuộc sống dân sự và đến Cornell để dạy học, và ấn tượng đầu tiên của tôi là một ấn tượng rất kỳ lạ và tôi không thể hiểu được nữa nhưng sau đó tôi cảm nhận được rất mạnh mẽ. Đó là khi tôi đang ngồi trong một nhà hàng ở NewYork, nhìn ra các tòa nhà và ước tính khoảng cách bao xa, tôi nghĩ, bạn biết đấy, bán kính thiệt hại của quả bom ở Hiroshima là bao nhiêu. Nó sẽ hủy diệt bao xa kể từ con đường thứ 34 này? Tất cả tòa nhà sẽ hóa thành tro bụi và vân vân. Và tôi có một cảm giác rất lạ. Tôi bước đi và thấy người ta đang xây một cây cầu, hay họ đang làm một con đường mới. Và tôi nghĩ, con người thật điên rồ, họ không hiểu, họ không hiểu. Tại sao con người phải làm ra những thứ mới này, nó vô dụng? Nhưng may mắn thay nó có vẻ vô dụng trong 30 năm qua phải không, gần như vậy, có lẽ chúng ta có thêm 30 năm nữa. Như vậy tôi đã sai trong 30 năm qua khi nói việc xây những chiếc cầu là vô nghĩa và tôi vui mừng là nọ vẫn tiếp tục làm. Nhưng tôi chỉ muốn nói phản ứng đầu tiên của tôi sau khi làm xong việc này là thật vô nghĩa khi xây dựng mọi thứ. Cảm ơn rất nhiều.


Câu hỏi: Còn câu chuyện của ông về két sắt?

Feynman: Chà, có rất nhiều câu chuyện về két sắt. Nếu bạn cho tôi mười phút, tôi sẽ kể cho bạn nghe ba câu chuyện về két sắt. Được chứ? Động lực khiến tôi mở tủ khóa là tôi quan tâm đến sự an toàn. Ai đó đã chỉ cho tôi cách phá ổ khóa. Sau đó, họ sử dụng những tủ tài liệu có mã số. Một trong những hạn chế của tôi, trong cuộc đời tôi là cứ cái gì bí mật là tôi đều cố gắng khám phá nó. Và những ổ khóa tủ tài liệu của Công ty Mosler Lock là một thách thức của tôi. Làm thế nào mở được chúng?! Tôi tìm hiểu và tìm cách mở. Có rất nhiều điều về cách bạn cảm nhận những con số và nghe ngóng mọi thứ, v.v.. Đúng vậy, tôi hiểu được cơ chế an toàn cũ. Và họ đã làm ra một thiết kế mới để không có gì chạm vào bánh xe trong khi bạn xoay khóa. Tôi sẽ không đi vào chi tiết kỹ thuật, nhưng các phương pháp cũ không hoạt động nữa. Thế là tôi đọc sách của những người thợ sửa khóa. Sách nói ngay ở đoạn đầu là khi mở ổ khóa, trong một bối cảnh người phụ nữ ở dưới nước, chiếc két sắt ở dưới nước và người phụ nữ đang chết đuối hay gì đó, và anh ta đã mở được chiếc két sắt. Tôi không biết, một câu chuyện điên rồ. Và ở bìa sau họ nói với bạn cách họ làm điều đó mặc dù cũng không tiết lộ điều gì quan trọng cả; không có vẻ như họ thực sự có thể mở két theo cách đó. Đúng ra là đoán mật mã trên cơ sở tâm lý của người sở hữu nó! Vì vậy tôi luôn đoán rằng họ sẽ giữ mật mã ở một nơi bí mật. Dù sao thì điều đó đã rất đúng. Và cứ như một căn bệnh là tôi cứ làm điều này cho đến khi tôi tìm ra điều gì mới. Điều đầu tiên tôi làm là khoảng biến động của mật mã và bạn cần phải giới hạn đến bao nhiêu. Và sau đó tôi đã phát minh ra một hệ thống mà bạn có thể thử nghiệm tất cả các mật mã mà bạn phải thử. Hóa ra là khoảng tám nghìn, bởi vì bạn có thể chọn một trong hai trong mỗi số. Sau đó, tôi nhận thấy cứ mỗi năm số trong tổng số một trăm hai mươi nghìn… cuối cùng là có tám nghìn kết hợp. Và sau đó tôi vạch ra một kế hoạch để thử các số mà không cần thay đổi số mà tôi đã đặt, bằng cách di chuyển các bánh xe một cách chính xác, và tôi có thể làm điều đó trong tám giờ, thử tất cả các cách kết hợp. Và sau đó tôi vẫn phát hiện ra thêm rằng - điều này khiến tôi mất khoảng hai năm - không thể được, bạn thấy đó. Và tôi tiếp tục tìm kiếm - cuối cùng tôi thấy một cách là có thể lấy hai số cuối của mật mã bỏ ra nếu cái két đã mở. Nếu ngăn kéo được kéo ra thì bạn có thể vặn số và thấy chiếc bu lông đi lên và thử xung quanh và tìm hiểu xem cái gì tạo nên nó, nó quay lại ở số nào và những kiểu như vậy. Với một thủ thuật nhỏ là bạn có thể tìm ra mật mã. Và vì vậy tôi thường thực hành nó như là một thẻ thực hành, bạn biết đấy, mọi lúc, mọi lúc. Nhanh hơn, nhanh hơn và ngày càng kín đáo hơn, tôi sẽ đến và nói chuyện với một anh chàng nào đó và tôi sẽ dựa vào tủ hồ sơ của anh ta giống như tôi đang chơi với chiếc đồng hồ này bây giờ; bạn thậm chí sẽ không nhận thấy tôi đang làm bất cứ điều gì. Tôi không làm gì cả. Tôi chỉ xoay xoay mặt số, chỉ có thế thôi, bạn chỉ cần xoay xoay mặt số. Và tôi đã lấy được hai con số! Rồi tôi quay trở lại văn phòng và viết hai con số xuống, hai số cuối cùng trong ba số. Và nếu bạn có hai số cuối cùng thì chỉ cần mất một phút để tìm ra số đầu tiên; chỉ có 20 khả năng thôi. OK?

Và thế là tôi trở nên nổi tiếng vì khả năng phá két. Họ sẽ nói với tôi, “Mr. Schmultz đang ở ngoài thị trấn, chúng tôi cần một tài liệu từ két sắt của anh ấy. Ông có thể giúp mở nó? ” Tôi sẽ nói,“ Vâng, tôi có thể mở; tôi sẽ đi lấy dụng cụ” (Tôi có cần dụng cụ nào đâu). Tôi đến văn phòng và xem số két sắt của anh ấy. Tôi đã có hai số cuối cùng. Tôi đã thu thập đủ hai số cuối của két sắt của tất cả mọi người trong văn phòng của mình. Tôi mang theo một cái tuốc nơ vít vào túi sau  để giả làm dụng cụ mà tôi tuyên bố là tôi cần. Tôi quay trở lại phòng và tôi sẽ đóng cửa lại. Cảm nhận về việc bạn đang mở két sắt của ai đó không phải là điều mà mọi người nên biết bởi vì nó khiến mọi thứ trở nên bất an, thế nên không thể để mọi người cách làm như thế nào. Sau đó tôi ngồi xuống và đọc tạp chí hoặc làm việc gì đó trong khoảng 20 phút để tạo ra tiếng là việc tôi làm không dễ chút nào, không có mánh khóe gì cả. Và sau đó tôi đi ra, bạn biết đấy, đổ mồ hôi một chút và nói “Mở được rồi, đây các anh,” và vân vân. OK?

Có một thời điểm mà tôi đã mở một chiếc két sắt một cách vô tình, nó cũng làm tăng danh tiếng của tôi. Đó là một trực giác, một sự may mắn thuần túy giống như may mắn mà tôi đã có với các bản thiết kế. Đó là sau khi chiến tranh kết thúc, tôi phải kể cho các bạn nghe những câu chuyện này bây giờ vì sau khi chiến tranh kết thúc, tôi trở lại Los Alamos để hoàn thành một số giấy tờ và ở đó tôi đã mở két sắt. Đến nỗi tôi có thể viết một cuốn sách về phá két sắt tốt hơn những cuốn hiện có. Đầu tiên tôi sẽ giải thích cách tôi mở chiếc két sắt một cách lạnh lùng khi mà không biết mật mã, một két sắt chứa những thứ mật hơn bất kỳ cái két nào mà tôi đã mở. Đó là két sắt chứa bí mật của bom nguyên tử, tất cả bí mật, công thức, tốc độ neutron được giải phóng khỏi uranium, bao nhiêu uranium cần có để tạo ra một quả bom, tất cả lý thuyết, tất cả các tính toán, TẤT CẢ MỌI THỨ!

Và câu chuyện thế này. Tôi đang viết một báo cáo. Tôi cần báo cáo này. Đó là một ngày thứ bảy; Tôi nghĩ rằng mọi người đều làm việc. Tôi nghĩ nó giống như Los Alamos vật. Vì vậy, tôi đi xuống thư viện để tìm báo cáo. Thư viện ở Los Alamos có tất cả những tài liệu này. Có một cái hầm vĩ đại với một cái núm khóa khác thường mà tôi không biết gì cả. Tủ hồ sơ thì tôi hiểu, nhưng tôi chỉ là chuyên gia về tủ đựng hồ sơ. Không chỉ vậy, còn có những lính canh mang súng đi tới đi lui phía trước. Bạn không thể mở cái đó, OK? Nhưng tôi nghĩ, hãy đợi đã! Ông già Freddy DeHoffman trong bộ phận giải mật, ông phụ trách giải mật tài liệu. Những tài liệu nào bây giờ có thể được giải mật? Và ông ấy phải chạy xuống thư viện và quay lại thường xuyên, có thể ông ấy sẽ thấy mệt mỏi. Và ông ấy có thể có một ý tưởng tuyệt vời. Ông ấy sẽ làm một bản sao cho mỗi tài liệu ở thư viện Los Alamos. Ông ấy sẽ để trong tủ hồ sơ của mình, và có đến chín tủ đựng hồ sơ, nối tiếp nhau trong hai phòng, chứa đầy tất cả các tài liệu của Los Alamos và tôi biết ông có. Vì thế tôi sẽ đến văn phòng của DeHoffman và hỏi mượn tài liệu của ông, bản copy. Tôi đến nơi và cửa văn phòng đang mở. Có vẻ như ông ấy sẽ trở lại, đèn còn sáng; Và tôi chờ. Và khi tôi đang chờ đợi tôi đã nghịch ngợm các nút bấm. Tôi đã thử 10-20-30, không chạy. Tôi đã thử 20 40-60, cũng không. Tôi thử mọi thứ. Tôi đang chờ và không có gì để làm cả. Sau đó, tôi bắt đầu nghĩ, bạn biết đấy, những người thợ khóa đó, tôi chưa bao giờ có thể tìm ra cách mở chúng một cách hiệu quả. Có thể họ cũng không, có thể tất cả những điều họ đang nói với tôi về tâm lý học đều đúng. Tôi sẽ mở cái này bằng tâm lý học. Điều đầu tiên, cuốn sách nói, "Cô thư ký rất lo lắng rằng cô ấy sẽ quên mật mã." Cô ấy đã được cho biết mật mã nhưng cô ấy có thể quên và ông chủ cũng có thể quên - nên cô ấy phải nhớ. Vì vậy cô ấy tìm cách viết nó ở đâu đó. Ở đâu? Danh sách các địa điểm mà một thư ký có thể viết mật mã. OK? Bắt đầu với ngăn kéo, ngay khi bạn mở ngăn kéo và trên tấm gỗ dọc theo bên ngăn kéo, bên ngoài có những con số được viết ngoằn ngoèo, giống như thể đó là một số hóa đơn. Đó chính là mật mã. Tức là ở bên cạnh bàn làm việc. OK? Tôi đã nhớ điều sách viết như vậy. Quay lại ngăn bàn bị khóa, tôi đã mở khóa dễ dàng, ngay lập tức rút ​​ngăn kéo ra, xem tấm gỗ bên - không có gì. Không sao, không sao cả. Có rất nhiều giấy tờ trong ngăn kéo. Tôi tìm kiếm xung quanh các tờ giấy và cuối cùng tôi tìm thấy nó, một mảnh giấy nhỏ xinh có bảng chữ cái Hy Lạp. Alpha, beta, gamma, delta, v.v., được in cẩn thận. Người thư ký thì có phải biết những chữ này hay nói về nó không? Có tất cả mọi chữ nhưng, có một chữ được ghi một cách  nguệch ngoạc ngay trên đầu là Pi bằng 3,14159. Chà, tại sao cô ấy cần giá trị của Pi?, cô ấy có cần tính toán gì chằng? Thật sự, nó giống như trong sách. Tôi sẽ kể cho các bạn nó được mở thế nào. Tôi tiến đến cát két và thử 31-41-59. Không mở. 13-14-95 - không mở. 95-14-13, cũng không mở. 14-31, tôi loay hoay thử số Pi này trong hai mươi phút mà không được. Thế là tôi bước ra khỏi văn phòng và nhớ cuốn sách về tâm lý học và tôi đã nói, bạn biết đấy, nhưng chính xác là như vậy. Về mặt tâm lý, tôi đúng. DeHoffman đúng là kiểu người sử dụng một hằng số toán học làm mật mã an toàn của mình. Vì vậy, hằng số toán học quan trọng khác là e. Vì vậy, tôi quay trở lại két sắt, 27-18-28, ấn vào, clack, nó mở ra. Tôi đã kiểm tra bằng cách này và tất cả các mật mã khác đều như vậy. Chà, có rất nhiều câu chuyện như thế nhưng đã muộn rồi, đó là một câu chuyện thú vị và tôi dùng nó để kết thúc. 

 

Chú thích

Là tên của dự án lớn chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên bắt đầu vào năm 1942. Đỉnh điểm của nó là vụ ném bom Hiroshima và Nagasaki vào ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945. Dự án này  được thực hiện trải dài trên toàn nước Mỹ với các địa điểm như Đại học Chicago; Hanford, Washington; Oak Ridge, Tennessee; và Los Alamos, New Mexico, nơi những quả bom được chế tạo và là trụ sở chính của toàn bộ dự án. Ed.

2 Robert Wilson,  khoa học đạt giải Nobel Vật lý năm 1978 (cùng với Amo Penzias) cho phát hiện ra tán xạ sóng nền micro vũ trụ. NXB 

3 ở đại học Princeton.

4  Emilio Segre, người đạt giải Nobel Vật lý năm 1959 (cùng với Owen Chamberlain) về việc phát hiện ra phản proton. NXB.

5  (1901-1954) Người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1938 vì chứng minh sự tồn tại của các chất phóng xạ mới được tạo ra bởi bức xạ neutron và các công trình liên quan. Fermi cũng là người chủ nhiệm dự án phản ứng hạt nhân có điều khiển đầu tiên tại Đại học Chicago vào tháng 12 năm 1942. NXB. 

6 (1885-1962) Người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1922 cho công trình về cấu trúc nguyên tử và bức xạ nó phát ra. NXB

7 Aage Bohr (1922- ) Người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1975 (Cùng với Ben Mattelson và James Rainwater) cho lý thuyết về cấu trúc hạt nhân nguyên tử. NXB   


Đọc lại bài báo mở đầu Cơ học lượng tử của Heisenberg năm 1925

Năm 2025 là năm kỷ niệm 100 năm ngày ra đời của Cơ học lượng tử, đánh dấu bởi bài báo của Heisenberg tiêu đề “Về việc diễn giải lại động học...